Chúng
ta thường nghe Lục Phủ Ngũ Tạng, vậy lục phủ ngũ tạng là gì? Nếu nghiên cứu về
đông y nó rất phức tạp không chỉ đơn giản là những bộ phận trên cơ thể người. Tạng
là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần, huyết,
tân, dịch. Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận. II. LỤC PHỦ
Phủ là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển vận
các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có 6 phủ:
đởm, vị, tiểu đường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.
I. NGŨ TẠNG
Tạng là các bộ phận cơ thể có nhiệm vụ chuyển hoá và tàng trữ tinh, khí, thần,
huyết, tân, dịch. Có 5 tạng: tâm (phụ là tâm bào lạc), can, tỳ, phế, thận.
- Tâm ý chỉ tim
- Can ý chỉ gan
- Tỳ ý chỉ lá lách
- Phế ý chỉ phổi
- Cật ý chỉ thận
1.1. Tâm
Tạng tâm đứng đầu các tạng, có tâm bào lạc bảo vệ bên ngoài, phụ trách các hoạt
động về thần chí, huyết mạch, khai khiếu ra lưỡi biểu hiện ra ở mặt.
1.1.1. Chủ về thần chí
Thần chí là các hoạt động về tinh thần, tư duy. Tinh và huyết là cơ sở cho hoạt
động tinh thần, mà tâm lại chủ về huyết nên tâm cũng chủ về chí, tâm là nơi cư
trú của thần vì vậy nói là “tâm tàng thần”.
Tâm khí và tâm huyết đầy đủ thì tinh thần sáng suốt, tỉnh táo. Tâm huyết không
đầy đủ xuất hiện các triệu chứng bệnh như: hồi hộp, mất ngủ, hay mê, hay quên.
Tâm huyết có nhiệt thì có thể thấy mê sảng, hôn mê v.v…
1.1.2. Chủ về huyết mạch, biểu hiện ra ở mặt
Tâm khí thúc đẩy huyết dịch trong mạch đi nuôi dưỡng toàn thân. Nếu tâm khí đầy
đủ, huyết dịch vận hành không ngừng, toàn thân được nuôi dưỡng tốt, biểu hiện ở
nét mặt hồng hào tươi nhuận, trái lại tâm khí bị giảm sút, sự cung cấp huyết
dịch kém đi thì sắc mặt xanh xao, có khi huyết dịch bị ứ trệ gây các chứng mạch
sáp, kết lại, ứ huyết v.v…
1.1.3. Khai khiếu ra lưỡi
Biệt lạc của tâm thông ra lưỡi, khí huyết của tâm đi ra lưỡi để duy trì hoạt
động của chất lưỡi.
Trên lâm sàng xem chất lưỡi để chẩn đoán bệnh ở tâm: như chất lưỡi đỏ là tâm
nhiệt, chất lưỡi nhạt là tâm huyết hư, chất lưỡi xanh có điểm ứ huyết là huyết
ứ trệ v.v...
1.1.4. Tâm bào lạc
Là tổ chức bên ngoài của tâm để bảo vệ không cho tà khí xâm nhập vào
tâm.
Trên thực tế lâm sàng các triệu chứng của bệnh của tâm và tâm bào lạc giống
nhau: như trong bệnh truyền nhiễm có sốt (ôn bệnh) chứng hôn mê được gọi là
“nhiệt nhập tâm bào” giống như chứng hôn mê của tâm nhiệt.
1.1.5. Ngoài ra người ta còn chú ý đến quan hệ sinh khắc, biểu lý với các
tạng phủ khác: tâm hoả sinh tỳ thổ, khắc phế kim, tâm và tiểu trường có quan hệ
biểu lý
1.2. Can
Can chủ về tàng huyết, chủ về sơ tiết, chủ cân, khai khiếu ra mắt, vinh nhuận
ra móng tay, móng chân.
1.2.1. Chủ về tàng huyết
Tàng huyết là tàng trữ về điều tiết lượng máu trong cơ thể. Lúc nghỉ ngơi, lúc
ngủ nhu cầu về huyết dịch ít, máu được tàng trữ ở can; trái lại lúc hoạt động,
lao động nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể đòi hỏi cao hơn, can lại bài xuất khối
lượng máu dự trữ để cung cấp kịp thời.
Chức năng tàng huyết của can bị rối loạn sẽ ảnh hưởng đến các tạng phủ và sinh
các triệu chứng bệnh: như can huyết không đầy đủ thấy hoa mắt, chóng mặt, chân
tay co quắp, kinh nguyệt ít có thể bế kinh…Can khí bị xúc động, huyết đi lạc
đường, có thể thấy các hiện tượng xuất huyết như nôn ra máu, chảy máu cam, băng
huyết, rong huyết…
1.2.2. Chủ về sơ tiết
Sơ tiết là sự thư thái, thông thường còn gọi là “điều đạt”. Can khí chủ về sơ
tiết giúp cho sự vận hành của khí các tạng phủ được dễ dàng, thông suốt, thăng
giáng được điều hoà. Can khí sơ tiết kém sẽ có những biểu hiện bệnh lý đặc biệt
ở tình chí và sự tiêu hoá.
Về tình chí, ngoài tạng tâm đã nêu ở trên, còn do tạng can phụ trách. Can khí
bình thường, thì khí huyết vận hành điề hoà, tinh thần thoải mái.Trái lại can
huyết sơ tiết kém sẽ gây tình trạng khí bị uất kết hay hưng phấn quá độ. Can
khí uất kết biểu hiện: ngực sườn đầy tức, u uất, hay thở dài, kinh nguyệt không
đều, thống kinh…Can khí xung thịnh gây cáu gắt, hoa mắt, chóng mặt, ù tai…
Về tiêu hoá: sự sơ tiết của can có ảnh hưởng lớn đến sự thăng giáng của tỳ vị.
Nếu can khí uất kết hay can khí hoành nghịch có thể thấy các triệu chứng
đau cạnh sườn, đau thượng vị, ăn kém, ợ hơi, ợ chua, ỉa chảy gọi là chứng “can
tỳ bất hoà” hay “can vị bất hoà”…
1.2.3. Chủ cân, vinh nhuận ra móng tay, móng chân
Cân là cân mạch gồm các khớp, gân, cơ, phụ trách việc vận động của cơ thể. Nói
can chủ cân tức là can nuôi dưỡng các cân bằng huyết của can (can huyết: can
huyết đầy đủ, cân mạch được nuôi dưỡng tốt, vận động tốt, trái lại can huyết hư
sẽ gây các chứng tê bại, chân tay run, co quắp, teo cơ, cứng khớp…Nếu sốt cao,
huyết dịch hao tổn không dưỡng cân gây co giật, tay chân co quắp.
Móng tay móng chân là chỗ thừa của cân mạch, nên tình trạng thiếu đủ của can
huyết sẽ có những biểu hiện hồng nhuận cứng cáp hay nhợt tái thay đổi hình dạng
(móng tay uốn khum)
1.2.4. Khai khiếu ra mắt
Tinh khí của ngũ tạng thông qua huyết dịch đều đi lên mắt, nhưng chủ yếu là do
tạng can vì can tàng huyết và kinh can đi lên mắt
Can khí thực do phong nhiệt gây chứng mắt đỏ, sưng, đau; can huyết hư gây quáng
gà, giảm thị lực. Can phong nội động gây miệng méo, mắt lác..
1.2.5. Ngoài ra can mộc còn sinh tâm hoả, khắc tỳ thổ và có quan hệ biểu lý
với đởm
1.3. Tỳ
Tạng tỳ ở trung tiêu, chủ về vận hoá nước và đồ ăn, thống huyết, chủ cơ nhục và
tứ chi, khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ở môi.
1.3.1. Chủ về vận hoá: tỳ chủ về vận hoá đồ ăn và thuỷ thấp
a. Vận hoá đồ ăn: là sự tiêu hoá, hấp thu và vận chuyển các chất dinh
dưỡng của đồ ăn. Sau khi tiêu hoá, các chất tinh vi được tỳ hấp thu và chuyển
vận lên phế, phế đưa vào tâm mạch để đi nuôi dưỡng các tạng phủ, tứ chi, cân,
não
Công năng vận hoá đồ ăn của tỳ mạnh gọi là sự “kiện vận” thì sự hấp thu tốt
trái lại nếu tỳ mất “kiện vận” sẽ gây các chứng rối loạn tiêu hoá: ăn kém, ỉa chảy,
mệt mỏi, gầy…
b. Vận hoá thuỷ thấp: tỳ đưa nước đến các tổ chức cơ thể để nuôi
dưỡng, sau đó chuyển xuống thận ra bàng quang bài tiết ra ngoài. Như vậy việc
chuyển hoá chuyển hoá nước trong cơ thể do sự vận hoá của tỳ phối hợp với sự
túc giáng của phế và sự khí hoá của thận.
Sự vận hoá thuỷ thấp của tỳ kém sẽ gây chứng đàm ẩm, khiến cho nước tràn ra tứ chi gây phù thũng, xuống đại trường gây ỉa chảy, đến khoang bụng thành cổ trướng…
1.3.2. Thống huyết
Thống huyết hay còn gọi là nhiếp huyết có nghĩa là quản lý, khống chế huyết. Sự vận hoá đồ ăn của tỳ là nguồn gốc của khí và huyết, nhưng tỳ còn thống huyết. Tuỳ khí mạnh huyết sẽ đi trong mạch, được khí thúc đẩy đi nuôi dưỡng cơ thể, trái lại tỳ khí hư sẽ không thống được huyết, huyết sẽ ra ngoài gây các chứng xuất huyết như rong huyết, đại tiện ra máu lâu ngày…
1.3.3. Chủ cơ nhục, chủ tứ chi
Tỳ đưa các chất dinh dưỡng của đồ ăn đến nuôi dưỡng cơ nhục, nếu tỳ khí đầy đủ sẽ làm cho cơ nhục rắn chắc, tứ chi nhẹ nhàng linh hoạt; trái lại nếu tỳ khí yếu sẽ làm thịt mềm, trương lực cơ giảm gây tứ chi mệt mỏi, gây các chứng thoát vị: như sa trực tràng, sa sinh dục, sa dạ dày…
1.3.4. Khai khiếu ra miệng, vinh nhuận ra môi
Khai thiếu ra miệng là nói về sự ăn uống, khẩu vị
Tỳ mạnh thì muốn ăn, ăn ngon miệng, nếu tỳ hư thì chán ăn, miệng nhạt
Tỳ chủ về cơ nhục, lại khai khiếu ra miệng nên biểu hiện sự vinh nhuận ra môi: tỳ mạnh thì môi hồng thuận, tỳ hư thì môi thâm xám, nhạt màu.
1.3.5. Tỳ còn sinh ra phế kim, khắc thận thuỷ có quan hệ biểu lý với vị
1.4. Phế
Phế chủ hô hấp, chủ khí, có tác dụng tuyên phát và túc giáng, khai khiếu ra mũi và bên ngoài hợp với bì mao (da lông)
1.4.1. Chủ khí, chủ hô hấp
- Phế là nơi trao đổi khí: hít thanh khí, thải trọc khí nên nói phế chủ hô hấp
- Phế chủ khí, vì phế có liên quan đến tông khí. Tông khí được tạo thành bởi khí của đồ ăn do tỳ khí đưa tới kết hợp với khí trời do phế khí đưa tới, tông khí được đưa vào tâm mạch đi toàn thân dinh dưỡng tổ chức.
Phế khí bình thường, đường hô hấp thông, thì hơi thở điều hoà; trái lại phế khí hư kém xuất hiện chứng khó thở, thở nhanh, tiếng nói nhỏ, người mệt mỏi không có sức…
1.4.2. Chủ về tuyên phát và túc giáng
a. Tuyên phát: có ý nghĩa là thúc đẩy sự tuyên phát của phế (gọi tắt là sự tuyên phế) thúc đẩy, khí huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong đi vào các tạng phủ, kinh lạc, ngoài đi tới, bì mao, cơ nhục, không nơi nào không đến. Nếu phế khí không tuyên thì sẽ gây sự ủng trệ có các triệu chứng như tức ngực, ngạt mũi, khó thở…
b. Túc giáng là đưa phế khí đi xuống: phế khí đi xuống là thuận, nếu phế khí nghịch lên trên uất tại phế sẽ có các triệu chứng: khó thở, suyễn tức..
1.4.3. Phế chủ bì mao thông điều thuỷ đạo
a. Bì mao là phần ngoài cùng của cơ thể gồm da, lông, tuyến mồ hôi, là nơi tà khí bên ngoài bắt đầu xâm nhập vào cơ thể. Tác dụng tuyên phát phế đem các chất dinh dưỡng cho bì mao.
Vệ khí cũng tuyên phát ra bì mao để chống đỡ ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh ở phần biểu thường thấy xuất hiện các chứng ở vệ và phế phối hợp với nhau như ngoại cảm phong hàn: sợ lạnh, sợ gió, ngạt mũi, ho…
Nếu phế khí hư yếu, không tuyên phát ra bì mao làm da lông khô sáp, lưa thưa đưa tới cơ năng bảo vệ của bì mao bị giảm sút nên dễ bị cảm mạo…
b. Phế còn tác dụng thông điều thuỷ đạo. Nhờ tác dụng tuyên phát và túc giáng, nước trong ở cơ thể được bài tiết ra bằng đường mồ hôi, hơi thở, đại tiện như chủ yếu là do nước tiểu. Phế khí đưa nước tiểu xuống thận, ở thận nước tiểu được khí hoá một phần đưa xuống bàng quang và bài tiết ra ngoài.
Trên lâm sàng bệnh phù thũng do phong thuỷ (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu.
1.4.4. Khai khiếu ra mũi, thông với họng, chủ về tiếng nói
Mũi là hơi thở của phế, để thở và ngửi thông qua tác dụng của phế khí. Phế khí bình thường thì sự hô hấp điều hoà, nếu phế khí trở ngại như ngoại tà xâm nhập thì gây ngạt mũi, chảy nước mũi, không ngửi thấy mùi, phương pháp chữa bệnh vẫn lấy tuyên phế là chính.
Phế còn chủ về tiếng nói và thông ra họng. Bệnh ở phế luôn thấy xuất hiện các chứng ở họng và tiếng nói và thông ra họng mất tiếng…
1.4.5. Phế còn sinh thận
thuỷ, khắc can mộc và có quan hệ biểu lý với đại trường
1.5. Thận
Thận chủ về tàng tinh, chủ cốt tuỷ, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể, chủ
nạp khí, chủ thuỷ, khai khiếu ra tai, tiền âm, hậu âm và vinh nhuận ra tóc
1.5.1. Thận tàng tinh, chủ về sinh dục và phát dục của cơ thể
Tinh của tiên thiên và tinh của hậu thiên đều được tàng trữ ở thận gọi là thận
tinh. Tinh biến thành khí nên còn có thận khí.
Thận tinh còn gọi là thận dương, nguyên dương, chân dương, mệnh môn hoả. Thận
tinh và thận khí quyết định sự sinh dục và phát dục của cơ thể từ lúc nhỏ tới
già như mọc răng, tuổi trưởng thành sinh con cái (gọi là thiên quý thịnh) và
lão suy (thiên quý suy)
Như trong sách Nội kinh có nói: “con gái 7 tuổi thì thiên quý thịnh, răng thay
tóc dài, 14 tuổi thì thiên quý đến mạch nhâm thông với mạch xung, vì vậy lúc đó
người con gái thấy kinh. Thường đời người con gái có 7 thiên quý ( 7x7 = 49)
lúc đó mạch nhâm yếu, mạch xung kém, thiên quý cạn hết, kinh nguyệt không còn,
nên thân thể yếu đuối.
Con trai lúc 8 tuổi thận khí thực, tóc tốt, răng thay, 16 tuổi thận khí
thịnh thiên quý đến, tinh khí đầy 24 tuổi thận khí điều hoà, thân thể cường
tráng mạnh khoẻ, 64 tuổi thận khí kém, tóc rụng, răng khô, lục phủ ngũ tạng đều
suy yếu, thiên quý cạn nên râu tóc bạc, người mệt mỏi…”
Thận âm và thận dương, nương tựa vào nhau, chế ước lễ nhau giữ thế bình quân về
âm dương. Nếu thận hư không có hiện tượng hàn hay nhiệt thì gọi là thận tinh hư
hay thận khí hư. Nếu có hiện tượng nội nhiệt là do thận âm hư. Nếu có hiện
tượng ngoại hàn (sợ lạnh, tay chân lạnh) là do thận dương hư.
1.5.2. Chủ về khí hoá nước.
Thận khí có chức năng khí hoá nước tức là đem nước do đồ ăn uống đưa tới nước
cho tổ chức cơ thể và bài tiết nước ra ngoài.
- Sự chuyển hoá nước trong cơ thể do 3 tạng phụ trách: tỳ vận hoá hấp thu đưa
lên phế, phế túc giáng xuống thận, ở thận được khí hoá những chất trong (có
ích) được lên phế phân bố đi toàn thân, những chất đục được đưa xuống bàng
quang thải ra ngoài.
Vì vậy trên lâm sàng, căn cứ vào vị trí trở ngại, người ta chữa chứng phù thũng
ở tỳ, ở phế hay ở thận.
1.5.3. Chủ về xương, tuỷ, thông với não và vinh nhuận ra tóc
Tinh được tàng trữ ở thận,tinh sinh tuỷ, tuỷ vào trong xương, nuôi dưỡng xương,
nên gọi là thận chủ cốt sinh tuỷ. Nếu thận hư, làm sự phát dục của cơ thể giảm
sút gây hiện tượng chậm mọc răng, chậm biết đi, xương mềm yếu…
Tuỷ ở cột sống lên não, thận sinh tuỷ, nên gọi là thận thông với não, không
ngừng bổ sung tinh tuỷ cho não. Thận hư (thường do thiên nhiên) làm não không
phát triển sinh các chứng: trí tuệ chậm phát triển,tinh thần đần độn, kém sự
thông minh…
Huyết do tinh sinh ra, tinh tàng trữ ở thận, tóc là sản phẩm “thừa ra” của
huyết, được huyết nuôi dưỡng, vì vậy thận là căn nguyên sinh ra tóc. Sự
thịnh suy của thận có quan hệ mật thiết với tóc như bẩm sinh thận khí bất túc
thì tóc mọc thưa thớt, thanh niên khoẻ mạnh thì tóc tốt nhuận, người già thận
khí yếu thì tóc bạc, rụng tóc….vì vậy nói: thận vinh nhuận ra ở tóc.
1.5.4. Nạp khí
Không khí do phế hít vào được giữ lại ở thận gọi là sự nạp khí của thận
Nếu thận hư không nạp được phế khí làm phế khí nghịch lên gây chứng ho hen, khó
thở. Trên lâm sàng người ta chữa chứng hen suyễn, chứng ho ở người già, bằng
phương pháp bổ thận nạp khí.
1.5.5. Khai khiếu ra tai và tiền âm, hậu âm
Tai do thận tinh nuôi dưỡng, thận hư sẽ gây tai ù, tai điếc. Ở người già thận
khí, thận tinh suy yếu nên hay gặp chứng tù tai, điếc.
Tiền âm là nơi bài tiết nước tiểu, bộ phận sinh dục nam hay nữ, thận chủ về khí
hoá bài tiết nước tiểu và sự sinh dục vì vậy gọi là thận chủ về hậu âm. Thận hư
hay gặp chứng đi tiểu luôn ở người già, chứng đái dầm ở trẻ em chứng di tinh,
ra khí hư…
Hậu âm là nơi đại tiện ra phân, do tạng tỳ đảm nhiệm. Nhưng tỳ dương được thận
khí hoá để bài tiết phân ra ngoài nên còn gọi là thận chủ về hậu âm. Nếu thận
khí hư hay gặp chứng đại tiện lỏng, đại tiện ở người già.
Hậu âm và tiền âm thường quản lý đại tiện và tiểu tiện nên còn nói “thận chủ
nhị tiện”.
1.5.6. Ngoài ra, thận thuỷ còn sinh ra can mộc và khắc tâm hoả, có quan hệ
biểu lý với bàng quang
II. LỤC PHỦ
Phủ là các bộ phận của cơ thể có nhiệm vụ thu nạp, tiêu hoá, hấp thụ, chuyển
vận các chất từ đồ ăn uống và bài tiết các chất cặn bã của cơ thể ra ngoài. Có
6 phủ: đởm, vị, tiểu đường, đại trường, bàng quang và tam tiêu.
Vị ý chỉ dạ dày
- Đởm ý chỉ mật
- Tam tiêu ý chỉ
thượng tiêu, trung tiêu, và hạ tiêu. Thượng tiêu là phần cuống họng trở lên,
trung tiêu là phần giữa của dạ dày, và hạ tiêu phần cuống dưới của dạ dày.
- Bàng quang ý chỉ
bọng đái
- Tiểu Trường ý chỉ
ruột non
- Đại Trường ý chỉ
ruột già
2.1. Đởm
Đởm có quan hệ biểu lý với can, chứa chất mật (tinh chấp) do can bài tiết. Cổ
nhân nói: “khí thừa của can tràn vào mật, tụ lại thành tinh chấp”. Mật giúp cho
việc tiêu hoá đồ ăn. Chất mật có màu xanh, vàng và vị đắng. Khi có bệnh ở đởm
thường xuất hiện chứng vàng da, miệng đắng, nôn mửa ra chất đắng.
Đởm còn có chức năng về tinh thần, chủ về quyết đoán.
Can và đởm có quan hệ biểu lý, can chủ về mưu lự, đởm chủ về quyết đoán là cơ
sở của lòng dũng cảm, tinh thần giám nghĩ giám làm. Các bệnh về can đởm hay
phối hợp với nhau.
2.2. Vị
Vị chứa đựng và làm nhừ đồ ăn, đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có liên quan
biểu lý với nhau, đều giúp cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu
thiên”.
Trên lâm sàng, công tác chuẩn đoán và chữa bệnh đều rất chú trọng đến sự thình
suy của tỳ vị. Khí của tỳ vị gọi tắt là “vị khí” dùng để tiên lượng sự phát
triển tốt hay xấu của bệnh và dự kiến của kết quả công tác chữa bệnh, nên người
xưa có nói: “vị khí là gốc của con người”, “còn vị khí sẽ sống, hết vị khí sẽ
chết”. Bảo vệ vị khí là một nguyên tắc chữa bệnh của YHCT.
2.3. Tiểu trường
Tiểu trường có nhiệm vụ phân thanh, giáng trọc. Thanh (chất trong) là chất tinh
vi của đồ ăn được hấp thụ ở tiểu trường, qua sự vận hoá của tỳ đem đi nuôi
dưỡng toàn thân,cặn bã sẽ được đưa đến bàng quang để bài tiết qua ngoài. Trọc
(chất đục) là cặn bã của đồ ăn đựơc tiểu trường đưa xuống đại trường.
Khi tiểu trường có bệnh, việc phân thanh giáng trọc bị trở ngại gây các chứng:
sống phân, ỉa chảy, tiểu tiện ít v.v…
2.4. Đại trường
Đại trường chứa đựng và bài tiết các chất cặn bã, có quan hệ biểu lý với phế.
2.5. Bàng quang
Bàng quang chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoà vạư phối hợp
của tạng thận.
Nếu sự hoá khí của thận không tốt sẽ gây bí tiểu tiện, đái dắt hoặc đái nhiều
lần, tiểu tiện không tự chủ v.v…
2.6. Tạm tiểu
Tạm tiêu gồm thượng tiêu, trung tiêu, trung tiêu. Thượng tiêu từ miệng xuống
tâm vị dạ dày có tạng tâm và phế. Trung tiêu từ tâm vị dạ dày đến môn vị có
tạng tỳ và phủ vị. Hạ tiêu từ môn vị dạ dày đến môn vị có tạng tỳ và phủ vị. Hạ
tiêu từ môn vị dạ dày xuống hậu môn có tạng can và thận.
Sự hoạt động của tam tiêu biểu hiện ở sự khí hoá và sự vận chuyển đồ ăn, ở
thượng tiêu: Phế chủ hô hấp, phân bố khí và chất dinh dưỡng vào huyết mạch được
tâm khí đưa đi toàn thân; ở trung tiểu tỳ vị vận hoá hấp thu đồ ăn và đưa nước
lên phế, ở hạ tiêu có sự phân biệt thanh trọc, tinh tàng trữ ở thận, các chất
cặn bã được thải ra ngoài bằng đường đại tiện và tiểu tiện.
Người ta còn nói tam tiêu chủ việc bảo vệ các tạng phủ trong cơ thể.
III. QUAN HỆ GIỮA CÁC TẠNG PHỦ
Mỗi tạng hay phủ có chức năng riêng biệt, nhưng chúng có quan hệ với nhau theo
quy luật vừa đối lập vừa nương tựa với nhau để tạo cho cơ thể thanh một khối
thống nhất về cấu tạo và chức năng.
3.1. Quan hệ giữa tạng với tạng
3.1.1. Tâm và phế
Tâm chủ huyết, phế chủ khí. Tâm và phế phối hợp làm khí huyết vận hành duy trì
các hoạt động cơ thể. Khí thuộc dương, huyết thuộc âm, khí thúc đẩy huyết vận
hành, huyết đi kéo theo khí, nếu khí không thúc đẩy huyết sẽ ngừng lại gây ứ
huyết, nếu không có huyết, khí mất chỗ dựa phân tán mà không thu lại được.
Trên lâm sàng có các chứng bệnh:
a. Phế khí hư nhược, tông khí trong tâm mạch không đầy đủ gây ra tâm phế đều
hư, tâm khí không thúc đẩy âm huyết, gây ứ huyết, làm đau vùng ngực (hay gặp ở
các bệnh xơ cứng mạch vành).
b. Tâm khí không đầy đủgấy huyết ứ làm trửo ngại đến phế mạch làm phế khí không
tuyên giáng gây chứng hen suyễn (như hen tim).
c. Tâm chủ về hoả,tâm hoả vượng ảnh hưởng đến phế âm một mặt xấu hiện các chứng
tâm phiền, mất ngủ…, một mặt xuất hiện các chứng ho, ho ra máu…
3.1.2. Tâm và tỳ
Tâm chủ huyết, tỳ sinh huyết. Nếu tỳ khí hư không vận hoá được thì tâm huyết sẽ
kém gấy hiện tượng hồi hộp, hay quên, mất ngủ, sắc mặt xanh gọi là chứng tâm tỳ
hư.
3.1.3. Tâm và can
Can tàng huyết, tâm chủ huyết. Cả hai tạng phối hợp tạo thành sự tuần hành của
huyết. Trên lâm sànghay thấy xuất hiện chứng can,tâm âm hư hay can, tâm huyết
hư: hoảng hốt, hồi hộp sắc mặt xanh, hoa mắt, chóng mặt, móng tay không nhuận.
Can chủ sơ tiết, tâm chủ về thần chí. Hoạt động tinh thần chủ yếu do hai tạng
tâm và can phụ trách, can và tâm do huyết nuôi dưỡng, khi chúng có bệnh ngoài
các chứng trạng về huyết kể trên còn có các chứng trạng về tinh thần như mất
ngủ hay quên, hôig hộp, sợ hãi, giạn giữ…
3.1.4. Tâm và thận
Tâm ở trên thuộc hoả, thuộc dương; thận ở dưới thuộc thuỷ, thuộc âm. Hai tạng
giao nhau để giữ được thế quân bình gọi là “thuỷ hoả ký tế” hay “tâm thận tương
giao”.
Trên lâm sàng nếu thận thuỷ không đầy đủ, không chế ước được tâm hoả gây các
chứng: hồi hộp, mất ngủ, nằm mê miệng lưỡi lở loét gọi là chứng “tâm thận bất
giao” hay “âm hư hoả vương”.
3.1.5. Phế và tỳ
Phế chủ khí, tỳ chủ khí hậu thiên, cả 2 tạng có liên quan với nhau mật thiết.
Chứng khí hư trên lâm sàng thường xuất hiện: thở ngắn, gấp, nói nhỏ, lười nói
(thuộc phế khí hư), mỏi mệt, ăn kém, ỉa lỏng (thuộc tỳ khí hư).
3.1.6. Phế và thận
Phế chủ khí, thận nạp khí. Thận hư không nạp được phế khí gây chứng ho, hen
suyễn…
3.1.7. Can và tỳ
Can chủ về sơ tiết, tỳ chủ vận hoá, sự thăng giáng của tỳ vị có quan hệ đến sự
sơ tiết của can. Nếu sức tiết của can bị trở ngại sẽ làm cho sự thăng giáng của
tỳ vị trở nên bất thường hay gây các chứng: ngực sườn đầy tức không muốn ăn,
đầy bụng, ợ hơi…hay gặp ở các bệnh loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng…
3.1.8. Thận và tỳ
Thận dương hay thận khí giúp cho tỳ vận hoá được tốt, nếu thận dương hư thì tỳ
dương cũng hư gây các chứng ỉa chảy ở người già, viêm thận mạn tính (âm thuỷ).
3.1.9. Can và thận
Can tàng huyết, thận tàng tinh. Can huyết do thận kinh nuôi dưỡng, nếu thận
tinh không đầy đủ sẽ làm can huyết giảm sút.
Thận có thận âm, thận dương, can có can âm, can dương. Nếu thận âm hư không
nuôi dưỡng được can âm, thì can dương vượng lên như trong bệnh cao huyết áp
xuất hiện các chứng: Nhức đầu, chóng mặt hoa mắt, mặt đỏ…
3.2.Quan hệ giữa tạng và phủ.
3.2.1. Tâm và tiểu trường.
Tâm và tiểu trường có liên quan biểu lý đến nhau, trên lâm sàng nếu tâm nhiệt (
sốt cao) thường gây các chứng đái ít, đái đỏ, nước tiểu nóng….Phương pháp chữa
là thanh tâm lợi tiểu.
3.2.2. Tỳ và vị.
Tỳ và vị là hai cơ quan giúp cho sụ vận hoá đồ ăn. Tỳ chủ vận hoá, vị chủ thu
nạp, tỳ ưa táo nghét thấp, vị ưa thấp nghét táo, tỳ lấy thanưg làm thuận, vị
lấy giáng làm hoà. Như vậy tính chất của tỳ vị đối lập nhau giữa táo và thấp,
giữ thăng và giáng nhưng lại thống nhất với nhau. bổ sung cho nhau để giúp việc
tiêu hoá được bình thường.
Khi tỳ vị có bệnh, sự thắng giáng có thể đảo nghịch: như tỳ khí đáng lẽ đưa
thanh khí (trong) lên trên, lại đưa xuống dưới gọi là chứng tỳ hư hạ hãm gây
các bệnh ỉa chảy,sa sinh dục, sa trực tràng, băng huyết, rong huyết…tỳ khí đáng
lẽ đưa trọc khí (đục) đi xuống, lại đưa lên trên gây các chứng nôn mửa, nấc…
Tỳ vị có bệnh gây nên sự đảo lộn về thấp và táo. Tỳ ghét thấp nhưng do tỳ hư
không vận hoá được thuỷ thấp làm thuỷ thấp đình lại gây các chứng mệt mỏi, phug
thũng, ỉa lỏng. Vị ghét táo nhưng do vị hoả quá mạnh làm tân dịch bị khô gây
nên vị âm hư có các chứng táo bón, loét miệng, chảy máu chân răng…
3.2.3. Thận và bàng quang
Sự khí hoá ở bàng quang tốt hay xấu đều dựa vào thận khí thịnh hay suy. Nếu
thận kém sẽ gây chứng dị niệu, tiểu tịên không tự chủ, đái dầm…
Tác giả bài viết: Sưu Tầm Tổng Hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét