Resveratrol là một loại
polyphenol, được tìm thấy trong vỏ nho sẫm màu được sản xuất tự nhiên khi cây
bị tấn công bởi các mầm bệnh như vi khuẩn hoặc nấm.
Polyphenol thường được liên
kết với các hợp chất là chất chống oxy hóa. Điều này là do chúng có thể phản
ứng với các gốc tự do để tạo thành một phân tử ổn định hơn; một loại ít độc hơn
gốc tự do. Vì chức năng chính của resveratrol trong tự nhiên là bảo vệ trái cây
chống lại mầm bệnh, điều đó chỉ có nghĩa là nó sẽ thể hiện hoạt động chống nấm
mạnh mẽ trong cơ thể con người. Nó cũng phá hủy candida albicans.
Reseveratrol đã được chứng
minh là có tính độc hại chọn lọc đối với các tế bào ung thư. Làm sao?
Reseveratrol hầu như không độc hại, sau khi uống, nó được chuyển hóa nhanh
chóng ở gan, được gắn vào một phân tử giải độc có tên là glucononate, có tác
dụng làm cho nó vô hại. Tuy nhiên, tại vị trí khối u, resveratrol được giải nén
bởi một enzyme có tên là glucononasease, loại bỏ nó khỏi glucuronate và làm cho
nó có sẵn để làm việc trên các tế bào ung thư.
Đáng chú ý Resveratol
Trong các nghiên cứu được công
bố trong nghiên cứu chống ung thư tháng 3 năm 2004, resveratrol và curcumin đã
cản trở sự phát triển của tế bào khối u và gây ra apoptosis trong u nguyên bào
thần kinh (ung thư não) bằng cách kích hoạt con đường gen p53. Ngoài việc gây
ra apoptosis, resveratrol dường như tiêu diệt các tế bào ung thư bằng cách khử
cực (tức là khử từ) màng ty thể (nguồn năng lượng) trong các tế bào khối u, dẫn
đến giảm khả năng hoạt động của tế bào. Resveratrol là một tá thuốc chống ung
thư tất cả được gói thành một. Đó là một trong những thành phần giết và chiến
đấu chống ung thư tự nhiên mạnh mẽ theo nhiều cách.
Có ý kiến cho rằng
resveratrol làm cơ sở cho hiện tượng được gọi là nghịch lý Pháp, đó là sự thật
không giải thích được rằng người Pháp, người có cùng mức cholesterol như phần
còn lại của chúng ta, chỉ có một phần ba tỷ lệ mắc bệnh tim. Tại sao? Bởi vì
người Pháp uống rượu vang trong bữa ăn, và rượu vang đỏ chứa nồng độ
resveratrol cao. WHO đã đề xuất rằng resveratrol có thể giảm tới 40% nguy cơ
tim mạch, vì nó ngăn chặn sự dính của tiểu cầu, đối với quá trình oxy hóa LDL,
làm giảm mức chất béo trung tính và (quan trọng nhất) làm giảm mức độ căng
thẳng, do đó làm thư giãn và làm giãn động mạch. Các tác dụng có lợi khác bao
gồm tăng tổng hợp collagen và cải thiện trầm cảm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét