Web có hơn 1,100 bài viết, hàng trăm chủ đề sức khỏe. Nhiều bài không hiển thị trên tìm kiếm hơi bất tiện. Xem mục DANH SÁCH BÀI VIẾT.

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2023

LONG HOA MẬT TẠNG QUYỂN 1

QUỐC BẢO CHÂN KINH

 

LONG

 

HOA

 

MẬT TẠNG

 

KINH

 

THIÊN ẤN - THIÊN BÚT

 

GÒ HỘI

 

ĐỨC PHỔ - QUẢNG NGÃI

 

2000

 

Cao Đức Thắng

 


QUYỂN 1

 

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

CHƯƠNG 1

 

Tôi là người Việt nên rất yêu mến Cội Nguồn người Việt.

 

Tôi thường nghe thầy tôi là Đức Hư Không Tạng Diệu Không kể lại rất nhiều lịch sử, nhưng đáng chú ý nhất đó là lịch sử Tiên Rồng.

 

Thầy tôi kể, lịch sử Tiên Rồng là một lịch sử có thật, lịch sử tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Đã trải qua nghìn năm Văn Hiến do các Vua Hùng tôn thờ truyền lại. Thầy tôi nói, Quốc Tổ Hùng Vương là Đấng Chí Tôn Thiên Đế lâm phàm, đã để lại cho con cháu Việt Nam.  Hai di sản quí hiếm.

1: Là di sản Non Sông Tổ Quốc.

2: Là di sản Văn Hóa Cội Nguồn.

 

Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Nền Quốc Đạo Tiên Rồng là Tinh Hoa vũ trụ, là tiền đồ ung đúc bao thế hệ tinh thần Dân Tộc, trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Rừng vàng biển bạc Non Sông đất nước là tiền đồ ung đúc lên sự giàu sang ấm no hạnh phúc.

 

Tôi lại hỏi. Thưa thầy: Nền Quốc Đạo Tiên Rồng tốt đẹp như vậy, sao không phát triển truyền bá rộng rải cho thế hệ con cháu gìn giữ?

 

Thầy nói. Nền Quốc Đạo Tiên Rồng là Nền Thiên Luật vũ trụ, Hiến Pháp Đại Đồng Tạo Hóa, Đạo Trời, Thiên Đạo. Chỉ dành riêng cho Vua thờ, không phải Đạo của dân thờ. Hơn nữa trình độ dân trí thời ấy quá lạc hậu, tập tục mê tín dị đoan quá lớn. Hơn nữa Nền Quốc Đạo Tiên Rồng lời lẻ thâm sâu khó hiểu nên không thể truyền rộng rãi xuống dân được. Chỉ vào ngày hội lớn mới được nghe. Nhưng đó chỉ là lời truyền dạy khuyến thiện mà thôi, còn Tinh Hoa của Nền Quốc Đạo thời dân khó mà được nghe.

 

Nền Quốc Đạo Dân Tộc là Nền Hiến Pháp, Luật Pháp trị Quốc an dân, Nền Quốc Học Văn Minh thời đại. Nhất là lọt vào Tà Ma Ngoại Đạo thời nguy hiểm cho đất nước, họ lợi dụng chánh giáo mê hoặc dân chúng, y giáo một đường giảng một nẻo. Bốp méo Luật Thiên chuyện không nói có chuyện có nói không. Nhất là kẻ thù có dã tâm xâm lược. Thời tai họa không biết đâu mà lường.

 

Thầy nói. Giữ Tổ Quốc Non Sông đã khó. Giữ gìn Nền Quốc Đạo lại càn khó hơn, vì thế Văn Hóa Cội Nguồn được coi như là báu vật vô giá, được giữ gìn nghiêm ngặt. Hơn nữa Thiên Cơ chưa đến thời cơ chưa phù họp. Thời xa xưa ấy Dân Tộc Văn Lang nói riêng, nhân loại thế giới nói chung. Khoa học thế giới vật chất trên đà đang hình thành tượng búp, chưa thành búp nói gì đến nở hoa khoa học Văn Minh vật chất. Nên chưa chế tạo ra giấy bút tinh vi. Chỉ dùng da Thú thay cho giấy. Còn dùng thanh tre thay cho giấy là sau này mới có. Không những nền Văn Minh vật chất chưa thành búp mà ngay cả chữ viết cũng còn thô sơ lạc hậu không kém. Khó mà diễn tả ý của Văn Kinh. Lấy việc khắc tượng, vẽ hình họa cảnh lên đất, lên đá, lên cây để truyền dạy cho thế hệ sau. Sự truyền dạy ấy không mấy đem lại kết quả. Quốc Tổ Vua Hùng cũng thấy rõ được điều này.

 

Nên nói rằng ta sẽ trở lại trần gian ở kỳ 3. Là thời kỳ trình độ dân trí lên cao. Khoa học vật chất đã nở hoa rực rỡ. Văn Hóa Cội Nguồn ra đời không có điều kiện để lại Kinh Luân. Mọi chuyện truyền giáo chỉ truyền khẩu cho nhau, thông qua khẩu tự ngôn từ Từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cứ thế kéo dài mấy nghìn năm thời chuyện gì xảy ra. Đó là tam sao thất bổn. Làm sai lệch chính văn là đều không tránh khỏi vì thế Nền Tinh Hoa Quốc Đạo cũng dần dần biến mất, thay vào đó là những chuyện sai lệch.

 

Có thể nói buổi ban đầu truyền giáo, Quốc Tổ Vua Hùng thuyết kể về Con Rồng Cháu Tiên thật. Về sau qua nhiều thế hệ truyền giáo thuyết kể Con Rồng Cháu Tiên, qua những lý luận mơ hồ, kể lần ra loài Rắn nước không còn chút uy lực nào cả. Rồi bị ngoại xâm biến thành con giun dưới chân của chúng, Dân Tộc Tiên Rồng trở thành dân tộc nô lệ. Thế hệ con cháu Vua Hùng càng về sau càng đánh mất Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn. Từ một lịch sử anh linh cao đẹp, rồi trở thành một tập quán truyền thuyết chân lý mơ hồ. Từ đây con cháu Tiên Rồng sa vào cảnh tối tăm. Nô lệ ngoại bang, nô lệ Thần Quyền, nô lệ Kiến Thức. Nhất là những thức vô cùng độc hại dẩn đến cảnh nồi da nấu thịt, anh em tàn sát lẩn nhau. Đạo Đức xã hội xuống cấp trầm trọng, dẩn đến chiến tranh truyền miên khó mà kết thúc. Đói nghèo lạc hậu đeo bám cuộc đời. Thương thay. Thương thay.

*********

 

Hết phần mở đầu Long Hoa Mật Tạng, mời khắp tần lớp xã hội con cháu Việt Nam, xem tiếp phần 1 chương 2 Long Hoa Mật Tạng Bộ Kinh tối cao, có một không hai trên toàn nhân loại. Chỉ cần đọc qua một lần, thời nhất định siêu sanh lên các tần trời, cõi trời hoặc trở thành những nhà lảnh tụ thiên tài. Lưu danh mãi nơi hậu thế. Nếu như đọc tụng ấn in, hoặc giảng giải cho người khác nghe, thời công đức phải nói là vô cùng vô tận. Phải nói là cầu đâu linh đó, cầu chi đặng nấy. Bằng có lời chi xúc phạm thời đại họa giáng xống không biết đâu mà lường.

Chỉ cần khen ngợi một câu

Muôn đời vạn kiếp siêu sanh cõi trời

Chỉ cần xúc phạm một lời

Họa tai giáng xuống đứng ngồi không yên

Linh thiên linh ứng vô biên

Chỉ cần thành kính cũng nên sang giàu.

 

 

 

CHƯƠNG 2

 

PHẦN 1

 

MẶT TRỜI CHÂN LÝ LẶNG BÓNG ĐÊM TRÙM XUỐNG NHÂN GIAN

 

Vào năm 110 trước công nguyên lúc đó giấy bút thô sơ mới được ra đời. Cho đến 542 sau công nguyên mới có diệp hưng thịnh nhưng chưa tinh vi mấy. Cũng từ đây các học giã Việt Nam. Hồi tưởng về Cội Nguồn. Tìm toài qua sự thờ cúng, Thơ ca, Hò vè, Truyện kể, Khắp mọi miền đất nước. Rồi đúc kết lại viết lên lịch sử Tiên Rồng, làm mối ghiền. Bản sắc đoàn kết dân tộc, bảo vệ giữ gìn quê cha Đất Tổ. Đánh đuổi ngoại xâm.

 

Nhưng tiếc thay các Ngài chỉ là người thường tục. Chưa tu luyện Đắc Đạo nên không có Huệ Nhãn, Pháp Nhãn. Khó mà thấy rõ quá khứ vị lai, phân biệt được sai lệch giả chân đúng sai. Trong sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca hò vè. Ở quá khứ và hiện tại sai lệch ở điểm nào, ghi đại những thu thập không hiểu là đúng sai cứ kết thành sử liệu, để lại cho đời sau.

 

Sự truyền khẩu kéo dài, lại thêm sự thêm bớt khi truyền khẩu. Có nhiều điểm vô lý thiếu khoa học. Nào có phải là tinh hoa Văn Hóa Cội Nguồn. Cái sai dây chuyền. Dựa vào đó mà kết thành sử liệu. Khác nào đưa cái sai đến chỗ sai thêm.

 

Ở đây chúng tôi nêu lên vài điều vô lý. Đối chiếu giữa mình và Trung Quốc ở sát bên nhau. Không những liên quan về Họ Tộc mà còn liên quan nhiều điểm khác nữa. Nếu nói Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ cách đây hơn 4 nghìn năm. Sinh ra một cái bọc đẻ ra trăm trứng nở ra trăm con.

 

Nếu nói trăm trứng nở ra trăm con, 50 Nam, 50 Nữ, Gái theo Mẹ lên núi, Trai theo Cha xuống biển. Lớn lên gặp lại lấy nhau. Thành Tổ Tiên của người Bách Việt là không có cơ sở khoa học. Vì sao?

 

Vì vào thời kỳ ấy, cách đây hơn bốn nghìn năm. Thời chỉ trước thời nhà Hạ, trước thời Nghiêu, Thuấn mà thôi. Không những không đúng sự thật mà còn có hại nữa là khác.

 

Nếu nói Âu Cơ sinh ra 50 Nam, 50 Nữ, Gái theo Mẹ lên núi, Trai theo Cha xuống biển, lớn lên gặp lại lấy nhau trở thành Tổ Tiên của người Bách Việt.

 

Chỉ ở thời điểm này thời chúng ta đã thấy bất ổn. Họ sẽ cho chúng ta có nguồn gốc loạn luân. Trong khi nước bạn Trung Quốc ở sát bên ta. Ở vào thời kỳ này nền Văn Minh Thần Giáo đang trên đà Văn Minh cực thịnh. Nhơn Luân cũng đã khá rõ ràng, anh em ruột không lấy lộn nhau. Nếu có lấy cũng chỉ là con nhà Cô Cậu, Dì Dượng mà thôi, còn trong họ tộc ít lắm cũng phải qua ba đời. Huống chi Nền Văn Minh Quốc Đạo Tiên Rồng, Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang cấm hẳn anh em ruột thịt lấy lộn nhau.

 

Nếu còn nói Âu Cơ chỉ sanh một trăm con Trai, tránh đi sự loạn luân, thời nguồn gốc của người Bách Việt lại càng thêm bất ổn. 100 người con trai Âu Cơ lớn lên lấy vợ ở đâu? Và những người vợ ấy là dân tộc nào? Không ai giải thích nổi, đó là nói đến phàm trí. Còn bật Đại Thánh trí thời thấy quá rõ ràng. Có thể nói tốm tắc câu chuyện, Lạc Long Quân và Âu Cơ sanh ra bọc trứng. Từ bọc trứng nở ra trăm con sau đây.

(Xem Kinh Long Hoa Thiên Tạng sẽ nói rỏ hơn).

 

QUỐC TỔ VUA HÙNG KỂ RẰNG:

Cách đây 3 trăm 27 triệu 600 nghìn năm. Ở vào thời kỳ ấy. Cuối kiếp tăng, đầu kiếp giảm. Thời kỳ ấy là thời kỳ chánh khí. Khí Tiên Thiên dày đặc. Côn trùng thảo mộc, sinh linh vạn vật, muôn loài Cầm Thú tiến hóa rất nhanh. Lại thêm tuổi thọ sống lâu vô kể nên sự sanh sôi nẫy nở lan rộng rất nhanh. Cùng khắp mặt Địa Cầu ở khắp năm châu bốn bể. Và cái ác, cái thiện sơ khai cũng từ từ ló dạng ra đời.

 

Loài Rồng và loài Quỷ thường đánh nhau, sự bất phân thắng bại ấy kéo dài tới hàng triệu triệu năm. Hết tiểu kiếp này sang tiểu kiếp khác.

 

Cho đến một hôm, Trái Đất xảy xa chuyện lạ. Đó là con người xuất hiện sanh con đẻ cháu, lưu truyền cho đến ngày nay. Cách đây 75 triệu 600 nghìn năm. Giữa tiểu kiếp thứ 5 của kiếp trụ. Tức là ở đỉnh kiếp tăng đầu kiếp giảm.

 

Thời kỳ ấy ở phương Đông có một dãy núi cao, to, rộng lớn vô cùng. Quanh năm tuyết phủ che lấp hết thảy ngọn núi, khí lạnh bao trùm. Chim muôn vạn thú ở dãy núi này đông vô số nhiều vô biên, không thể tính đếm hay luận bàn cho hết được. Phần nhiều muôn loài Cầm Thú đều có pháp thuật thần thông. Sự đi đi lại lại của các loài Cầm Thú thường gây lên những cơn gió lốc. Cây cối ngã đổ ầm ầm. Lại thêm loài Rồng đánh nhau với các loài Quỷ dữ dội. Nhất là đánh nhau với Mộc Tinh, Hồ Tinh và Ngư Tinh tạo ra cảnh mù trời mịt đất. Chết chóc ghê hồn.

 

Ngọn núi cao chót vót khoảng độ 10 nghìn mét, dài, to, rộng ấy, bao hàm rộng lớn gồm 3 nước. Lào, Campuchia và Việt Nam, hình thể như một con Rồng vương mình bay về vũ trụ.

 

Chân núi ở phía Đông rộng xa kéo dài thăm thẳm, giáp liền tới các Đảo. Ngày nay gọi là Đảo Hải Nam, Trường Sa, Hoàng Sa.

 

Chân núi ở phía Nam kéo dài rộng xa thăm thẳm. Giáp liền tới các Đảo Na Tu Na, MALAIXIA.

 

Chân núi ở phía Tây kéo dài rộng xa thăm thẳm. Giáp liền Mê gui, Ta voi, Nam tu, Mit ti na, MI AN MA.

 

Chân núi ở phía Bắc bao trùm cả Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. Nói chung bao trùm hầu hết giang Nam lỉnh Nam Trung Quốc.

 

Một dãy núi cao to đã kinh khiếp. Cọng thêm chân núi bốn phía xung quanh bao trùm rộng lớn như đã kể trên. Chưa hết, còn có 7 dãy núi khác nữa, bao bọc xa gần. Nói chung là 7 nước xa gần là 7 nước Đông Nam Á hiện nay.

 

Một dãy núi cao dài rộng lớn kinh khiếp ấy. Hình thể như một con Rồng vươn mình bay lên hư không vũ trụ. Nên gọi dãy núi đó là dãy núi Long Hoa. Long Hình Địa Cốt. Địa Long của quả Địa Cầu.

 

Ở dưới dãy lòng núi, nằm sâu dưới đất. Có một khoảng trống chạy dài theo dãy núi. Linh Địa đều tập trung nơi đây. Trải qua hàng triệu triệu năm. Linh tuyền linh. Cốt của Địa Long hết sức quí hiếm. Trên đỉnh núi tuyết phủ quanh năm, khí hậu lạnh lẽo.

 

Lưng chừng núi rãi rác có hàng trăm hàng nghìn cái động lớn. Hàng vạn cái động nhỏ. Phần do tự nhiên. Phần do Thú Cầm có pháp thuật thần thông tạo ra. Quang cảnh nhộn nhịp bởi quá đông chim muôn vạn thú. Cây cao bóng cả tàn tán Sum Suê. Xanh um bạc ngàn lớp áo bọc ngoài dãy núi. Hoa văn sặc sở chen nhau đua sắc đua hương của nhiều loại hoa. Thêm vào đó là những quả chín đỏ chín vàng. Lúc nào cũng mỉm cười với những cụm đá chồng ngộ nghĩnh. Cành lá rung rinh theo chiều gió, suốt ngày suốt đêm làm bạn hàng nghìn hàng trăm đám mây ngũ sắc la đà bay lượng xung quanh dãy núi. Làm cho quang cảnh xung quanh của núi có muôn vạn đèo mây.

 

Dãy núi Long Hoa đẹp như Thiên Sơn Tiên Cảnh. Còn bốn bên chân núi thời rừng xanh thăm thẳm, trải dài vô tận. Suối, sông, ao, hồ tuông chảy ngày đêm không ngớt. Thời tiết ở bốn phía chân núi chuyển vận theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Khi Chân Núi phía Bắc khí hậu lạnh, mưa to, gió lớn. Thời chân núi ở phía Nam lại là mùa nắng ấm. Chân núi ở phía Tây lạnh lẽo, mưa gió lụt lội. Thời ngược lại chân núi ở phía Đông lại là mùa khô ráo hạn hán. Cứ thế ở bốn phía chân núi thời tiết luân phiên trái ngược nhau.

 

Có thể nói dãy núi Long Hoa. Long Hình Địa Cốt. Là dãy núi thể hiện đầy đủ huyền Thiên Tạo Hóa. Vô Cực, Thái Cực, ÂM DƯƠNG, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Ngũ Hành, Bát Quái, Thiên Can, Địa Chi, Hào Quẻ, biến hóa ảo diệu vô cùng. Phải nói là dãy núi linh thiên nhất của Trái Đất. Trung tâm khí Thiên sông núi linh ứng của Quả Địa Cầu. Là một Thánh Địa để cho con người ra đời và thật vậy.          

*********

 

Hết phần 1 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 2. Long Hoa Mật Tạng kinh là bộ kinh quý hiếm không thể nghĩ bàn, những người hữu duyên chỉ cần đọc qua một phần kinh thời coi như tội lỗi tiêu tan muôn vạn ức kiếp, rốt sau đều thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Chúa tổ, giáo hóa vô lượng cõi nước trời. Nếu đem in ấn, biên chép truyền bá cho đời, thời phước đức không kể sao cho hết. Không những Ông Bà Cha Mẹ siêu thăng về thượng giới. Mà con cái cháu chắt hiễn vinh đời đời giàu sang bậc nhất.

Long Hoa Mật Tạng quí biết bao

Muôn nghìn ức kiếp khó tìm cầu

Chỉ cần đọc tụng truyền bá khắp

Vua Trời mãi mãi đấng tối cao.

 

 

 

CHƯƠNG 2

 

PHẦN 2

 

CHA TRỜI - ĐỊA MẪU

XUẤT HIỆN

LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ

 

Lúc bấy giờ nơi cõi Hư Không trung tâm vũ trụ, Đức Khai Hóa Tối Thượng Tổ Tiên, thấy muôn loài Cầm Thú sát phạt lẩn nhau, không còn tiến hóa được nữa với cái tánh ngu si mê muội ác độc, ngự trị mãi linh Hồn của chúng, đầu thai lẩn quẩn lộn qua lộn lại ở loài Cầm Thú mà thôi.

 

Tổ Tiên Khai Hóa nhìn vũ trụ nghỉ, giang sang ta rộng lớn thế này, không người cai quảng với tính chất ngu si của loài Cầm Thú thời khó mong làm chủ được vũ trụ, chớ đừng nói đến linh Hồn của chúng giác ngộ trở về Cội Nguồn, chúng mãi mãi ở lớp Thú Cầm, rồi đọa lạc sang Côn, Trùng, Thảo, Mộc.

 

Linh Hồn 8 muôn 4 nghìn loài sống trong vũ trụ nói chung, bốn quả Địa Cầu nói riêng linh Hồn của chúng cũng chính là linh Hồn của ta, ở hai dạng khác nhau.  Ta nước, chúng là bọt nước. Linh Hồn của ta Đại Linh Hồn vũ trụ ví như nước. Còn linh Hồn 8 muôn 4 nghìn loài là tiểu linh Hồn vũ trụ, ví như bọt nước. Tiểu Linh Hồn do Đại Linh Hồn tạo ra. Cũng như bọt nước là do nước tạo ra. Nước chỉ là một, còn bọt nước thì nhiều vô lượng vô biên.

 

Linh Hồn của chúng không phải do trí giác ta tạo ra mà do thân giác vũ trụ ta tạo ra. Khi trí giác vũ trụ ta ngủ sâu vào Đại Định, không còn kiểm soát thân giác nữa Thân giác ta liền khởi ý phân biệt xâm nhập vào thế giới vật chất. Thế là trở thành Tiểu Linh Hồn vũ trụ nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn.

 

Linh Hồn của chúng sanh ra khi ta còn đang ngủ. Nên Linh Hồn của chúng vì đó mà tối mê chìm đắm mãi trong cảnh giới vô minh không bao giờ trở về Cội Nguồn được. Cũng như bọt nước u mê, thời không bao giờ hiểu chúng từ nước sanh ra và Tiểu Linh Hồn cũng thế. Không bao giờ hiểu mình từ Đại Linh Hồn sanh ra vì không hiểu rõ Nguồn Cội của mình. Cứ trôi lăn mãi trong sanh tử, đầu thai qua lại ăn nuốt lẩn nhau, Ác tánh khởi sanh như non, như núi, xung đột tàn sát khốc liệt. Vì hiểu rõ muôn loài Cầm Thú tiến hóa đến đây thời không còn tiến hóa được nữa, cũng như trí giác Linh Hồn của muôn loài Cầm Thú không bao giờ tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ trở về với Cội Nguồn.

 

Nên Khai Hóa Tổ Tiên mới hiện thân ra con người.

(xem Kinh Long Hoa Thiên Tạng nói rõ điều này hơn)

Lưu truyền nòi giống con người để mà cứu chúng. Lưu truyền nòi giống con người có nhiều mục đích:

1: Là để cho các loài Cầm Thú, đầu thai làm người. Một thể xác cao cấp tiểu thiên vũ trụ.

2: Linh Hồn muôn loài Cầm Thú nhờ thể xác con người, thể xác cao cấp tiểu thiên vũ trụ. Tiến hóa Linh Hồn nhanh chóng lên cảnh giới, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.

3: Thay thế Tổ Tiên cai quản điều hành vũ trụ, lúc Tổ Tiên ngủ, cũng như lúc Tổ Tiên thức.

4: Điều hành nhân loại còn ở cảnh giới phàm, phàm phu theo Thiên Đạo. Hiệp theo bộ máy huyền vi của Tạo Hóa. Hiệp theo Thiên Luật Cội Nguồn.

5: Thay thế Tổ Tiên. Khai tạo lập lên cảnh giới Thiên Đàng Cực Lạc. Cảnh giới cao nhất của loài người.

6: Duy trì: Mật Tạng, Pháp Tạng, Thiên Tạng, Luật Tạng, Công Đạo Hiến Pháp vũ trụ.

7: Đại Đồng vũ trụ, Độc Lập thống nhất bình đẳng, đem lại sự bình yên cho toàn vũ trụ.

8: Phát minh khoa học toàn năng toàn giác, tinh thần, vật chất. Phục cho nền Văn Minh vũ trụ.

9: Trở về Cội Nguồn. Ví như bọt nước tan biến trở về là nước. Tiểu Linh Hồn trở về Đại Linh Hồn. Trở về thật tánh thật tướng của mình. Vô thỉ vô chung như như bình đẳng.

10: Là hiện thân toàn năng toàn giác lập ra vô lượng phương tiện. Phù hợp khả năng ở mỗi thời kỳ, độ tận thiên hạ. Sự hiện thân của Tổ Tiên Khai Hóa, lưu truyền nòi giống con người có 10 mục đích như thế, lợi ích như thế nhưng Tổ Tiên hiện thân bằng cách nào. Khi Tổ Tiên bản thể vốn vô vi, muốn hiện thân thành hửu vi phải có cơ sở khoa học của nó.

 

Tổ Tiên Khai Hóa phải dùng đến ý niệm tốm thâu, giống như Lực Nam Châm hút lấy sắc, thép, kẻm, chì. Tổ Tiên dùng ý niệm tốm thâu Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ. Hiện thân ra Đức Cha Trời, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng chói. Tổ Tiên lại tiếp tục dùng ý niệm, tốm thâu Tiên Thiên Chơn Âm, Tinh Hoa vũ trụ. Hiện thân ra Đức Địa Mẫu đủ 32 tướng tốt, 80 mươi vẽ đẹp hào quang sáng chóa.

 

Sự hiện thân của Tổ Tiến, một âm một dương, một nam một nữ. Làm cho không gian bổng sáng rực rỡ. Như báo hiệu Đức Cha Trời Đức Địa Mẫu ra đời, chuẩn bị cho cuộc hành trình lưu truyền nòi giống con người. Thay thế Tổ Tiên trông coi vũ trụ.

 

Đức Cha Trời khi có con gọi là Đức Lạc Long Quân.

Đức Địa Mẫu khi có con gọi là Đức Âu Cơ.

 

Đức Cha Trời cùng Đức Địa Mẫu, chọn lấy quả Địa Cầu Nam Thiện Bộ Châu. Quả Địa Cầu mà chúng ta đang sanh sống, làm nơi sanh sản con người trước nhất. Từ nơi chốn hư không trung tâm vũ trụ, Hai Đấng Tiên Rồng, Cha Trời, Địa Mẫu từ từ bay đến Trái Đất và đáp hạ xuống đỉnh núi Long Hoa, Long Hình Địa Cốt Trái Đất. Làm cho Trái Đất rung động. Chim muôn vạn thú kinh hoàng hoãng sợ, không biết điều gì đã xảy ra. Mây ngũ sắc bổng nhiên xuất hiện. Dưới mặt đất muôn hoa chen nhau đua nỡ, cây cối khô héo lâu ngày bổng đâm chồi nảy lộc xanh tươi trở lại. Sông suối khô cạn, tự nhiên nguồn mạch sung túc rốc rách chảy tuôn thấm nhuần mặt đất. Bầu Trời mát mẻ trong xanh, Nhật Nguyệt Tinh Tú thi nhau tỏa sáng. Dưới đất trên cây Phụng Hoàng nhảy múa. Rồng uốn khúc ngúc ngoắt vẫy đuôi, 8 muôn 4 nghìn loài như đi vào an lạc mới.

 

Từ nơi ngọn núi Long Hoa, muôn đạo hào quang tỏa lên rực rỡ, mang theo mùi hương thơm ngát Loài Cầm Thú nào hít được thời không còn đói khát, như uống phải cam lộ Linh Đơn, Linh Hồn phấn chấn như muốn bay bổng lên Trời. Các loài Cầm Thú có pháp thuật thần thông, thấy ngọn núi Long Hoa, muôn Đạo hào quang tỏa lên rực rỡ thời bốn phương tám hướng quả Địa Cầu, các loài Thần Thú Thần Cầm lũ lược bay đến làm cho ngọn núi Long Hoa trên không dưới đất chật nghẹt. Ngày hội của Thú Cầm.

 

Đây nói về Đức Cha Trời cùng Địa Mẫu đáp xuống ngọn núi Long Hoa gây ra chấn động Địa Cầu. Liền thâu nhỏ thân hình lại cao độ vài mươi trượng mà thôi. Đức Địa Mẫu Âu Cơ liền gồm thâu khí ngũ Địa, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc và Thổ Khí Linh truyền sâu dưới dãy núi Long Hoa, tạo thành phôi thai trăm trứng cùng trong một cái bọc to lớn trong bụng Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ.

 

Núi Long Hoa là dãy núi hình Rồng, thu hút Tinh Hoa của Trời Đất hàng triệu triệu năm. Vô Cực, Lưỡng Nghi, ÂM DƯƠNG gồm đủ, tứ tượng đủ đầy, bát quái chuyển xây, Ngũ Hành, Địa Chi không thiếu, một trăm chi khí, trấn khắp ngũ phương Đông, Tây, Nam, Bắc, Trung Uơng Thượng, Hạ.

 

Đức Địa Mẫu Âu Cơ tốm thâu Tinh Hoa, khí hóa Ngũ Địa của dãy núi chân núi Long Hoa. Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ kết tụ thành trăm trứng trong một bọc, trăm trứng vì vậy cũng chia thành năm màu da khác nhau.

 

Kim trứng da trắng. Mộc trứng da chàm. Thủy trứng da đen. Hỏa trứng da đỏ. Thổ trứng da vàng.

 

Sự hình thành phôi thai, dưỡng nuôi bào thai phải trải qua một thời gian khá lâu, đúng chu kỳ luật tự nhiên ở đỉnh cao tuổi thọ giữa tiểu kiếp thứ 5, con người sanh ra trung bình thọ 60 nghìn tuổi, yểu 40 nghìn tuổi, thọ 80 nghìn tuổi. Nên Địa Mẫu Âu Cơ phải mang thai 9 năm, 9 tháng, 100 ngày thời thai nhi mới phát triển đầy đủ, lục phủ ngũ tạng, sáu căn, chín khiếu hoàn hảo. Trở thành con người hài nhi (xác thân tiểu thiên vũ trụ). Tinh Cha, Huyết Mẹ, Tinh của Trời, Khí của Đất. Đức Địa Mẫu Âu Cơ đã mang thai trăm trứng. Sắp đến ngày khai hoa nỡ nhi, nhân loại con người sẽ ra đời, chào đời, sắp đến giờ quan trọng ấy.

 

Đức Địa Mẫu Âu Cơ nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng:

   Này ông, giờ thì đến lượt ông, ông hãy gọi muôn loài Cầm Thú đến, để chúng đầu thai làm con người, làm con của chúng ta.

 

Đức Long Hoa Cha Trời nghe Địa Mẫu Âu Cơ nói thế tức thời từ nơi cửa miệng của Đức Long Hoa Cha Trời, trùng trùng điệp điệp lớp lớp hào quang tung tủa phóng ra, tạo ra vô số vô biên âm thanh vi diệu, truyền xa đến tận chân trời góc bể khắp quả Địa Cầu.

 

Chim muôn vạn thú là những con chúa tể đầu đàn nghe được âm thanh ấy liền cấp tốc lên đường đến nơi Cha Trời đang gọi. Lúc bấy giờ xa gần trên không xa gần ở đỉnh núi Long Hoa. Lớp lớp mây ngũ sắc biến thành cây báu khổng lồ, các loài Cầm Thú khắp mặt Địa Cầu, loài ở động ở hang, loài ở rừng ở núi, loài ở cây ở đất, loài ở sông ở biển, loài ở tuyết ở lửa, thi nhau bay đến ngọn núi Long Hoa rợp trời rợp đất. Nhìn các loài Cầm Thú đông vô số vô biên, không thể tính đếm không thể nghỉ bàn, lớp ở mặt đất, lớp ở trên cây báu, lớp ở trên không, Chúa Tể của loài bò sát, Cầm Thú đều có mặt.

 

Các loài Thần Thú, Thần Cầm thấy hai Đấng Tiên Rồng, cao lớn kỳ lạ. Hào quang sáng rỡ muôn màu muôn sắc. Xinh đẹp tôn nghiêm. Nhưng rất hiền lành, có loài bạo dạng đến gần để nhìn cho rõ.

 

Địa Mẫu Âu Cơ thấy Chúa Tể của muôn loài đến đông đủ, toàn thân của Địa Mẫu Âu Cơ, trổi dậy vô lượng mùi hương lan tỏa khắp, muôn loài Cầm Thú, Bò Sát chỉ cần hít vào, không những hết đói khát cả tháng mà Linh Hồn cũng sáng suốt minh mẩn lạ thường, nhạy cảm vô biên.

 

Nhất là loài Rồng, loài Phụng, loài Khổng Tước, loài Kỳ Lân, loài Voi, loài Sư Tử, loài Ngựa, Trâu, Dê, Chó, Mèo v.v… Đức Long Hoa Cha Trời thấy chúng nó đã hít huệ hương, trí hương, giác hương, giới hương, định hương, thiện hương, dũng hương, tín hương, nghĩa hương, lễ hương, nhẩn hương, xả hương, nhịn hương, nhục hương, lạc hương, thiên hương v.v.. Liền dùng trăm nghìn muôn ức hào quang phát ra muôn vạn âm thanh vi Diệu, cùng một lúc thuyết giáo nói chuyện với muôn nghìn chủng loại Cầm Thú, Bò Sát.

 

LỜI TRUYỀN DẠY CỦA ĐỨC CHA TRỜI :

 

   Hỡi các loài Cầm Thú, các loài Bò Sát, ta đây là Đấng Chúa vũ trụ, Đấng tạo lập lên tất cả. Nay ta gọi các ngươi đến đây nói rõ các ngươi từ đâu có ra thời các ngươi phải hiểu để biết đường trở về, thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử, thoát khỏi cảnh ngu si khốn khổ. Khi xưa ta tạo ra Lực, Khí, Lửa, Nước, Đất, Ngũ Đại vũ trụ, thành lập Tam Thiên, Đại Thiên thế giới, ba cõi vật chất Thiên Đàng, Trần Gian, Âm Phủ. Tạo ra Nhật, Nguyệt, Thiên Hà Ngân Hà Tinh Tú, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ sau cùng là 4 quả Địa Cầu. Thời ta cũng đã quá mệt nên đi vào giấc ngủ say sưa. Ta có một cái tánh đặc biệt, khi ta thức thời pháp thân ta Quang Minh, nhưng khi ta đi vào giấc ngủ say sưa, không kiểm soát được pháp thân của ta nữa, pháp thân ta liền trở thành vô minh, xâm nhập vào thế giới vật chất. Khởi tưởng phân biệt bám lấy vật chất, từ bản thể linh giác, Thấy, Nghe, Hay, Biết tự nhiên của ta, nẩy sanh khởi tưởng phân biệt, tức thời thân ta một phần lớn bể ra từng mảnh nhỏ, nhiều vô số vô biên không thể tính đếm, không thể nghỉ bàn như vô số vi trần cát bụi vô tận vô biên. Những mảnh bể Linh Hồn đó đã trải qua vô lượng vô biên số kiếp, tiến hóa ý thức, những mảnh Linh Hồn đó chính là Linh Hồn của các ngươi.

 

   Linh Hồn của các ngươi ví như bọt nước, còn Linh Hồn của ta ví như nước. Bọt nước từ nước sanh ra nhưng bọt nước không biết Cội Nguồn của mình là nước. Ta là Đại Linh Hồn vũ trụ còn các ngươi là Tiểu Linh Hồn vũ trụ. Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh Hồn mà ra nhưng Tiểu Linh Hồn các ngươi không biết đường về, bởi gì các ngươi sanh ra mang theo cái tánh vô minh ấy của ta, trở thành tánh ngu si của các ngươi, cũng từ cái tánh ngu si này, dẩn dắc các ngươi đến con đường hung ác, con đường Dục Vọng, cấu xé ăn nuốt lẩn nhau và mãi mãi trong thống khổ Dục Vọng Điên Cuồng.

 

   Không những các ngươi khốn khổ trong cuộc sống sát phạt, ăn nuốt lẩn nhau mà còn khốn khổ trong sanh tử luân hồi đọa đầy khắp nẽo. Khốn khổ trong bộ mấy tuần hoàn vũ trụ, Thành, Trụ, Hoại, Không. Linh Hồn các ngươi phải lại chìm đắm trong lạnh lẽo, tối tăm ở kiếp không hàng trăm triệu năm.

 

   Linh Hồn của ta ví như nước, Linh Hồn của các ngươi là bọt nước. Bọt nước với nước chính là một không phải hai, mà là hai vì Linh Hồn của các ngươi là bọt nước còn Linh Hồn của ta là nước mà thôi. Nước không xa rời bọt nước, chính bọt nước không biết đấy thôi, Linh Hồn bọt nước của các ngươi đang sống trong Đại Linh Hồn vũ trụ nước của ta vì bọt nước và nước không tách rời nhau, nếu bọt nước tách rời khỏi nước thời bọt nước sẽ bị hủy diệt. Linh Hồn của các ngươi cũng vậy, nếu tách rời khỏi Đại Linh Hồn vũ trụ của ta thời Linh Hồn các ngưới sẽ bị hủy diệt ngay. Các ngươi nghỉ gì, làm gì ta đều nghe thấy tất cả, cũng giống như cá sống trong nước, cá làm gì, nghỉ gì nước đều thấy rõ.

 

   Thân xác của các ngươi là thân xác Cầm Thú, Bò Sát khó mà tiến hóa lên được nữa, Linh Hồn của các ngươi mãi là Linh Hồn Cầm Thú, Bò Sát, đầu thai qua lại ăn nuốt sát phạt trả quả cho nhau khổ mãi không ngừng.

 

   Các ngươi nên nhân cơ hội này xả bỏ xác thân Cầm Thú, Bò Sát, Linh Hồn đầu thai vào loài người, một thể xác cao cấp thể xác Tiểu Thiên vũ trụ. Không những Linh Hồn các ngươi tiến hóa rất nhanh trí huệ vô tận, nhờ thân xác con người các ngươi tiến tới làm chủ được mình, làm chủ vũ trụ, không những các ngươi thoát khỏi loài Thú, Cầm, Bò Sát, ngu si đần độn. Được làm người đứng thẳng, đầu đội Trời chân đạp đất, không những các ngươi thoát khỏi ngu si đần độn, được làm người làm con của ta, các ngươi sẽ thay ta, trông coi vũ trụ, đầy đủ Thần Thông trí huệ, phước báo pháp lực vô biên, tạo lập lên thế giới Thiên Đàng Cực Lạc, sống mãi không chết. thoát khỏi Sanh, Lão, Bệnh, Tử.

 

   Loài nào đầu thai làm người trước, loài đó sẽ ở ngôi vị Chí Tôn, làm đàn anh của loài người và tiếp theo ngôi vị sẽ phân theo thứ lớp.

 

Khi Đức Long Hoa Cha Trời thuyết giáo xong, liền có 100 Thần Thú, Cầm, Bò, Sát là những Chúa Tể đứng đầu. Thú, Cầm, Bò, Sát vui mừng khôn xiết liền xả bỏ thể xác, đầu thai nhập vào bụng Mẹ Âu Cơ. Chúa Tể loài Rồng xả bỏ thân xác nhanh chóng, đầu thai trước nhất ở ngôi số 1, kế đến là Phụng Hoàng, Khổng Tước, Kỳ Lân ở ngôi số 2, kế đến là Voi, Sư Tử ở ngôi số 3 rồi đến Ngựa, Trâu, Hổ, Gấu, Khỉ, Chó, Mèo v.v..(năm ngôi).

 

Chỉ riêng có 3 con Chúa Tinh yêu quái đứng đầu, các loài không phải Cầm, không phải Thú.

 

Một là loài Chồn Cáo có cánh: tánh đa nghi xảo hoạt, trộm cướp lén lút, thích nữa tối nữa sáng là lối sống của chúng, nghi ngờ lời thuyết giáo của Đức Cha Trời nên bỏ cơ hội làm con của Trời.

 

Hai là loài Thuồng Luồng có cánh: không phải Cầm, không phải Thú, không phải loài Bò Sát, tánh tình hung dữ đa nghi mưu mẹo ác độc, háo chiến háo sát, chúng hủy diệt cả tổ tông của chúng là loài Khủng Long. Với cái tính hung ác đa nghi bảo thủ cao, chúng không nghe lời Đức Cha Trời bỏ mất cơ hội làm con của Tiên Cơ Địa Mẫu, làm con của Đức Cha Trời.

 

Ba là loài cây sống lâu năm: đó là cây Mộc Hương, loài cây ăn thịt, loài cây này chuyên tiết ra mùi hương lạ dụ các loài Động Vật đến, kể cả các loài Cầm Thú. Chúng cũng được Cha Trời gọi đến nhưng chúng tự cao đến để thực hiện mưu đồ hưởng lợi từ hai bên Cha Trời Địa Mẫu và các loài Động Vật Cầm Thú, Bò Sát. Không những chúng không chịu đầu thai mà chúng còn tỏ thái độ ganh ghét, sự cao sang uy lực, thần thông quảng đại của Đức Cha Trời cũng như Địa Mẫu Âu Cơ.

 

Đức Cha Trời, Địa Mẫu Âu Cơ tuy biết thế nhưng cũng để yên cho chúng không phê phán gì, mà nghỉ chúng là kẻ có lợi cho sự tu luyện, con cái nhà Trời. Muốn tu luyện mau thành chánh quả phải nhờ cái ác khảo đảo phản tỉnh, có Đại Ác thời mới thấy Đại Thiện, thấy cái xấu thời mới quí cái tốt, thấy khổ mới đi tìm sự vui, muốn có Cõi Thiên Đàng Cực Lạc phải thoát ra từ cõi Địa Ngục.

 

Vì hiểu thế Đức Cha Trời không làm hại chúng mà còn nói:

   Nầy ba con quỷ, Luật Trạng vũ trụ rất công minh, nếu ngươi thắng được con ta, thời các ngươi có quyền làm chủ vũ trụ.

 

Ba con quỷ nghe Đức Cha Trời phán thế không những không cảm ơn mà còn cao ngạo phóng lên không trung bay đi đầy thách thức. Đức Cha Trời thấy thế liền nở nụ cười đầy bí hiểm, khó ai hiểu được thâm ý của Trời, bí mật mãi mãi là bí mật.

 

Từ khi Chúa Tể của các loài Cầm Thú, Bò Sát đầu thai vào bụng Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ để được làm người, làm con Trời phải trải qua chín tháng trăm ngày mới chào đời, trong thời gian ấy Đức Địa Mẫu Âu Cơ phải luôn luôn tốm thâu tinh hoa khí hóa Thiên Địa để nuôi con từng ngày từng giờ, với công lao ấy không có gì đền đáp nỗi.

 

Đức Cha Trời nhìn sự kham khổ của Địa Mẫu liền ngẩm nghỉ. Vì muốn sanh ra nhân loại con người, lưu truyền nòi giống con người. Để cho muôn loài vạn vật, Côn Trùng, Thảo Mộc muôn loài Cầm Thú tiến hóa lên, được đầu thai làm người. Tiến hóa Linh Hồn trở về Nguồn Cội giải thoát sanh tử, khốn khổ.

 

Địa Mẫu Âu Cơ mang thai theo quy luật tự nhiên của phàm trần, theo thời kỳ ấy, thời những người con của Địa Mẫu mới ở lại sống trong chốn nhân gian, nơi quả Địa Cầu này, một thứ khổ, mang thai, sanh con, nuôi con mà Địa Mẫu Âu Cơ là người đầu tiên trải qua kham khổ, khổ nhọc ấy.

 

Thật ra mà nói với Thần Lực của Đức Cha Trời và Địa Mẫu thời không cần mang thai đẻ con lâu như vậy (mà chỉ cần nháy mắt là tạo ra hàng loạt con người). Nhưng những con người đó chỉ là những con người bằng pháp thuật không phải con người trần tục, xác thân phàm trần, ăn uống đói khát theo quy luật tự nhiên, sanh con đẻ cháu lưu truyền nòi giống con người, chịu kham khổ tu hành tiến hóa, lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn, tiến lên cảnh giới Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa lối sống có nhân có quả, gieo Thiện gặt Thiện, gieo ác gặt ác, gieo phúc gặt phúc, gieo họa gặt họa theo quy luật tự nhiên.

 

Vì vậy để khai tạo ra con người phàm tục, sống chung với muôn loài vạn vật, Đức Địa Mẫu Âu Cơ phải trải qua sự khốn khổ mang thai, nuôi thai, sanh con đều trải qua sự khốn khổ lâu dài. 9 năm 9 tháng 100 ngày mới khai hoa nở nhị.

 

Đức Địa Mẫu Âu Cơ đã biết sắp đến giờ sanh nở, bằng nói với Đức Long Hoa Cha Trời rằng:

   Ông hãy ban cho con cái lời nguyền Hồng Phúc đi.

 

Đức Long Hoa Cha Trời nhìn về vũ trụ giang sang rộng lớn của mình, chưa có người trông coi và sáng tạo thêm cho xinh đẹp. Lập thành các cõi nước trời trang nghiêm. Đức Cha Trời lại nghỉ rằng. Ta là hiện thân của Đức Tổ Tiên, đấng tối cao vũ trụ, đấng chúa của Linh Hồn và vật chất. Ta cũng cần có người kế nghiệp, đó chính là con cái của ta, thay thế ta làm chủ vũ trụ. Đức Cha Trời lại nghỉ, pháp thân ta vô cùng vi Diệu khó mà nghỉ bàn. Đó là Cội Nguồn của tất cả Trời Đất, vạn vật sanh linh cùng vũ trụ, pháp thân ta là pháp thể Đại Đồng, Tự Do, Bình Đẳng. Hiến Pháp công đạo vũ trụ, ta cũng cần có người thay thế, duy trì Công Đạo vũ trụ, cầm cân này mực phân minh.

 

NÊN ĐỨC CHA TRỜI PHÁN TRUYỀN RẰNG:

 

   Này hỡi các con của ta, khi các con chào đời sẽ vang tiếng sấm trí tuệ, tiếng sấm Chúa Tể của muôn loài. Các con sẽ có trí Huệ, sáng hơn mặt trời, sáng hơn hào quang của ta, các con sẽ trở thành Phật, Thánh, Tiên vào ba ngôi báu của ta. Đó là Pháp Tạng, Thiên Tạng, Luật Tạng vào ngôi Chí Tôn, thay thế ta điều hành vũ trụ và lập lên các cõi nước Trời các Thiên Đàng Cực Lạc làm cho Tam Thiên, Đại Thiên vũ trụ mỗi ngày một thêm rực rỡ xinh đẹp trang nghiêm.

 

Lời nguyền của Đức Long Hoa Cha Trời vừa dứt, thời Địa Mẫu Âu Cơ đã sanh ra một bọc to lớn khổng lồ, sau đó là một tiếng nổ kinh thiên động địa, chấn động toàn vũ trụ. (Tiếng sấm Đại Đồng) kế theo là một trăm tiếng sấm nổ làm chấn động liên miên vũ trụ như muốn đến hồi sụp đổ. Như báo hiệu cho tất cả muôn loài vạn vật biết là nhân loại con người đã ra đời thay thế cha ông làm chủ vũ trụ, cai quản thế giới vật chất cũng như thế giới Linh Hồn, kế tục và gìn giữ cơ nghiệp vũ trụ của Ông Cha. Các loài Cầm Thú, Bò Sát vô cùng hoảng sợ, khiếp đảm khi nghe tiếng sấm vang dậy liên tiếp nổ ra làm rung chuyển cả Trời Đất, chấn động không gian vũ trụ, chúng linh cảm là hàng loạt Chúa Tể con người đã ra đời, từ đây chúng sẽ bị cai trị.

 

Chúng thấy trùng trùng điệp điệp muôn Đạo Hào Quang tỏa lên từ đỉnh núi Long Hoa không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng liền bay lên không trung hướng về ngọn núi Long Hoa, mỗi lúc một dữ dội. Âm thanh sấm nổ cứ vang rền mãi không dứt. Làm rung động cả núi rừng, cả năm châu bốn bể.

 

Nhất là ba con Quỷ tâm Hồn hoảng loạn run sợ không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Chúng liền bay lên không trung hướng về ngọn núi Long Hoa bay tới thời hết sức kinh hoàng. Một trăm người con của Đức Cha Trời đã ra đời.

 

Những tia hào quang tỏa ra từ trăm người con của Đức Cha Trời, làm chúng đau đớn ngạc thở. Như hàng vạn mũi kim đâm vào tim chúng, làm chúng hoảng sợ khiếp kinh ẩn mình trốn thoát không dám quay đầu nhìn lại nữa.

 

Khi ấy những dòng sữa của Đức Mẹ Địa Mẫu Âu Cơ tuông chảy ra và mọc lên hàng loạt ngũ cốc, dần dần lan ra khắp cùng mặt đất. Khi con người đi đến đâu, thời nơi đó có dòng sữa Mẹ ngũ cốc để sinh sống.

 

Đức Long Hoa Cửu Huyền Cha Trời nói:

   Này Bà, không bao lâu nữa thời dãy núi Long Hoa sẽ bị sụp. Đất đai phương Đông này, động đất dữ dội. Lục Địa giãn nở tách ra, phần lớn đất đai biến thành biển cả sông Hồ. Ở phương Tây cũng như trung Đông nước cạn dần và lộ ra những đất đai bằng phẳng. Phương Đông phần lớn ngập chìm trong biển nước, dãy núi Long Hoa bị sụp. Vì vậy sự sống của dãy núi cũng như sự sống của con cái không được an toàn.

 

   Chúng ta dẩn con cái về phương Bắc của dãy núi, tức là địa phận Quảng Đông Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, nói chung là bao trùm hầu hết miền Giang Nam Lãnh Nam Trung Quốc, giáp liền với sông Trường Giang, đất đai ở đây bằng phẳng, cây cối sum sê, hoa hiền trái ngọt, phía Đông Nam dãy núi Long Hoa địa chấn sụp xuống thành biển, nơi đây tuy có sụp nhưng vẫn an toàn con cái.

 

Thế là Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ bay lên không trung phất tay một cái. Tức thời trăm người con bay lên không trung theo Cha mẹ bay về phương Bắc của dãy núi, hạ xuống gần Nam sông Trường Giang bây giờ. Nơi đây đất đai bằng phẳng, cây cối sum sê, sông hồ kinh rạch, núi rừng đều thuận tiện cho cuộc sống. Bốn mùa, tám tiết, Xuân, Hạ, Thu, Đông lúc nào cũng có hoa quả sum sê bảo tồn nòi giống con người.

 

Nhìn những dãy đồi mênh mông xa thẳm sông suối nước trong ven vét. Địa Cuộc Rồng nằm, Hổ phục, Qui định, Phụng an, Chim muôn vạn Thú ở đây đông vô số vô biên, nhất là loài khỉ, loài vượn, loài Tinh Tinh, hàng vạn vạn con. Một hôm Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Địa Mẫu Âu Cơ nhìn trăm người con đã lớn, uy nghi như sứ Thần Tạo Hóa. Đức Địa Mẫu Âu Cơ nhìn đàng con khôn lớn, chúng có thể nghe có thể hiểu, bằng nói Ông hãy dạy bảo cho con đi.

 

Đức Cha Trời Lạc Long Quân thường thấy các con không được đoàn kết cho lắm, luôn luôn phân biệt màu da. Da vàng theo da vàng, da trắng theo da trắng, da đen theo da đen, da đỏ theo da đỏ, da chàm theo da chàm, luôn luôn phân biệt chia rẽ nhau.

 

Đức Cha Trời Lạc Long Quân phán rằng:

   Này hỡi tất cả con của ta, các con từ một bọc mà ra, tuy các con khác màu da nhưng các con chung cùng một Cội, một Cha, một Mẹ, một Tổ Tiên, một chiếc nôi Quả Địa Cầu, một ngôi nhà chung vũ trụ. Các con là anh em, các con phải biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau để mà sống, các con phải có tinh thần đoàn kết. Tôn trọng lẩn nhau, đối xử với nhau thật Bình Đẳng, tôn trọng quyền Tự Do, quyền Tự Chủ, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong cái riêng có cái chung, cái chung chính là Hiến Pháp Đại Đồng. Sẽ khởi sanh ra Luật Pháp bảo vệ cái riêng của các con. Các con phải có tấm lòng Quảng Đại, có chí nghĩa Nhân, có lòng hiếu thuận đối với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, biết thương yêu đồng loại, nòi giống Tiên Rồng.  Trung thành lẻ công, bảo vệ cái riêng, đã là loài người, đầu đội trời chân đạp đất, nòi giống Tiên Rồng. Thời các con phải khác với loài Cầm Thú, Bò Sát. Các con phải sống chân thật, khác với loài Cầm Thú, lừa dối phỉnh gạt lẩn nhau. Các con phải lấy nhơn Đức làm đầu, tha thứ cho nhau khi có lỗi, nâng đở nhau khi lâm nạn, lúc đói khổ. Đoàn kết là lối sống văn minh, chia rẽ là lối sống Địa Ngục, biết yêu thương con cái, biết hi sinh vì đại nghĩa, luôn luôn hướng về Cội Nguồn. Phụng thờ Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu cho con cái noi theo, đừng để lạc mất Cội Nguồn, chăm lo và giữ gìn Đức tánh con người luôn luôn hướng thiện, (xem Kinh Nhơn Luân).

 

   Nhờ các con luôn luôn hướng thiện nên các con tìm thấy Cội Nguồn. Trở về Tạo Hóa lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là ngôi Phật, ngôi Thánh, ngôi Tiên. Nếu các con có công lớn trong Văn Hóa Cội Nguồn trong việc truyền giáo độ sanh. Thời các con sẽ lên ngôi Chí Tôn vô thượng phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa.

 

   Nếu các con nghe theo lời dạy của ta chỉ cần được một nữa. Thời các con sẽ được làm vua, làm Chúa, phạm Thiên, Đế Thích ở các tần Trời. Hưởng phước quả, hạnh phúc vô tận vô biên. Sống trên Châu Báu tột đỉnh của sự giàu sang.

 

   Nếu các con chỉ cần làm được một lời ta dạy. Thời các con sẽ được làm Vua làm Chúa nơi chốn phàm trần. Nếu các con làm theo hai ba bốn lời ta dạy, thời các con sẽ là Vua lớn trên các Vua Chúa lớn trên các Chúa nhỏ.

 

   Nếu các con chỉ cần nghe theo một lời ta dạy, chỉ được một thời gian, nhất là thời gian ở cuối đời. Thời các con sẽ được làm các vị Thần may mắn, vị Thần của sự giàu sang, vị Thần hạnh phúc, vị Thần uy lực, vị Thần Trí Huệ. Công danh địa vị rực rỡ, huống chi các con làm theo trọn một lời cha dạy, nhiều lời cha dạy, thời phước báo không thể nghỉ bàn, có thể nói mãi mãi làm Vua, làm Chúa ở nhân gian, cũng như ở các cõi Trời, sống mãi trên cung vàng Điện ngọc.

 

   Nếu các con chỉ cần nghe qua rồi nhớ 1, 2 điều, trọn đời không quên thời các con sẽ được làm các vị Thần, Thiên Thần ở các cõi trời, muốn chi đặng nấy, cầu chi đặng nấy, đặng nhiều phép lạ để vui chơi. Nếu các con nghe những điều ta dạy, tuy chưa làm theo, nhưng không làm ác thời các con sanh lên các cõi Thiên Đàng Cực Lạc, làm Chư Thiên, Thiên Chúng làm dân ở cõi Trời, tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, muốn cái gì có cái đó.

 

   Nếu các con chỉ cần khen một lời ta dạy, thời các con sẽ được làm các vị Thần ở chốn nhân gian như: Thần Núi, Thần Rừng, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa, Thần Tuyết, Thần Thổ Địa, Thần Tài. Nếu có công ca ngợi Văn Hóa Cội Nguồn khi mãn số sẽ được thăng lên Thần Mặt Trời, Thần Mặt Trăng, Thần Sao Hôm, Sao Mai và các vị Thần Tinh Tú khác.

 

   Nếu các con chỉ cần truyền lại một lời dạy của ta, thời đời đời kiếp kiếp ta sẽ luôn luôn phù hộ cho con, cho đến khi nào con ngộ được chân tâm thấy được chân tánh trở thành Phật, Thánh, Tiên.

 

   Nếu các con tôn thờ ta, truyền lời dạy ta dạy cho thế hệ sau, thời các con sẽ trở thành Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, lên ngôi Chí Tôn vô thượng, Chánh đẳng Chánh giác, làm chủ vũ trụ.

 

Này các con của ta:

   Nếu các con làm ngược lại lời ta dạy, thời đi vào bất hiếu, nghịch Thiên, tai họa giáng xuống không sao kể xiết, các con sẽ biến thành Quỷ dữ, Ma Tinh, các con sẽ trở thành chủ nhân của bóng đêm, chủ nhân của sự chết chóc, các con sẽ tạo ra thế giới Địa Ngục, thế giới đau khổ không sao tả nổi, thế giới của sự chém giết, ăn sắt uống đồng, sự thống khổ không một giờ nghỉ.

 

   Nếu các con đi theo con đường ác, thời Chúa Tể của u minh sẽ sai Đại ác Quỷ ăn tinh, hút khí của các con. Làm cho các con kiệt sức vì chiến tranh. Chúng sẽ biến tâm hồn của các con thành tâm hồn ác Quỷ của chúng. Tham lam, gian trá, hận thù và sát phạt tàn sát lẩn nhau. Chúa Tể u minh sẻ biến các con thành những linh hồn ngu si. Mãi Mãi làm nô lệ cho chúng. Chiến tranh tàn sát là thú vui của chúng. Thế Giới đau khổ, những Địa Ngục sát phạt dã man nhất. Chính là Vương Quốc của chúng. Khoái lạc của chúng là sự chia ly, chết chóc, bệnh tật, tù đày. Keo kiệt, tham lam, ganh tị, hận thù, là cửa ngõ u minh. Bước vào thế giới đau khổ, thế giới của sự khảo tra áp bức đến kinh người. Chúng không bao giờ muốn các con tiến lên cảnh giới của Phật, Thánh, Tiên, vào ba ngôi Báu của Trời. Ba ngôi Báu ấy luôn luôn tỏa ánh sáng tâm linh làm chúng khiếp sợ.

 

   Nếu các con đi ngược lại lời dạy. Không những các con đi vào cảnh giới đau khổ. Không bao giờ nhìn thấy thế giới Thiên Đàng Cực Lạc. Cũng như không bao giờ nhìn thấy thật tướng, thật tánh Linh Hồn của các con. Vĩnh viễn không thấy được Cội Nguồn. Mãi mãi đọa lạc trong luân hồi sanh tử. Các con chỉ thấy sự giã dối, sự chết chóc. Chiến tranh, áp bức, bệnh tật, già nua. Và sự tàn sát chém giết, ăn nuốt lẩn nhau. Các con luôn luôn nếm đủ mùi cực nhọc khốn khổ và đau đớn. Đau đớn về thể xác, đau đớn về Linh Hồn. Đau đớn cảnh nồi da nấu thịt. Cảnh cha khóc con, vợ khóc chồng, anh em cấu xé tàn sát lẩn nhau. Nước mắt của các con, kiếp nầy sang kiếp khác. Cọng lại sẽ nhiều hơn một Đại Dương.

 

   Các con hôm nay đã được làm người. Lại là con của ta. Hai đấng Tiên Rồng Tối Cao Vũ Trụ, sự nghiệp giàu sang vô tận. Cái giàu không sao kể xiết, vàng, bạc, Châu Báu vô tận. Đầy cả Hư Không, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Đó là các cõi nước Trời. Các con hôm nay đã là con của ta. Chỉ cần nghe lời của ta dạy. Thời các con sẽ thay ta làm chủ Vũ trụ. Sống trong bất tử và sự giàu sang. Nếu các con không nghe lời thời đáng tiếc biết bao.

 

   Hỡi các con ta là Đấng Cha Trời. Đấng biết trước. Những gì xảy ra trong tương lai ta đều thấy rõ biết rõ. Vì vậy các con phải tuyệt đối tin tưởng ta. Vì ta là Chúa Tể vũ trụ. Đấng thương yêu các con hơn hết.

 

   Những gì nơi vũ trụ. Cha đã tạo ra, đều là của các con. Nhưng các con muốn có được nó. Thời các con phải có Tài, có Trí, có Đức. Biết áp dụng khoa học kỷ thuật. Nguyên lý thuận nghịch, biến ảo vũ trụ, vận dụng sức mạnh vũ trụ, làm sức mạnh của mình. Thời các con mới làm chủ được nó. Đó là nói đến những người con, người cháu có Đức, có tâm, có trung, có hiếu đối với Tổ Tiên Cội Nguồn, nghe theo và làm theo lời ta dạy.

 

   Còn những kẻ nghịch Thiên, đi ngược lại lời ta dạy. Dù có làm nhiều, ra sức nhiều, tốm thâu, bầu vét khắp thiên hạ vũ trụ, cuối cùng cũng chỉ là trắng tay. Nếu các con nghe lời dạy của ta, các con sẽ luôn luôn gặp ta ở khắp mọi nơi, che chở và diều dắt các con. Dù cho các con có trải qua vô lượng ức kiếp sanh tử, ta cũng theo sát các con, hộ trì các con, cứu khổ các con, làm cho trí huệ các con mỗi ngày mỗi thêm tỏa sáng, làm chủ được tâm, làm chủ được tánh. Phát Đại Nguyên rộng lớn tận độ vô tận, vô biên, lớp lớp con cháu nhân loại các thế hệ sau vào ngôi vị Chí Tôn Chánh Đẳng, Chánh Giác. Các con Hạnh Nguyện viên mản, bọt nước trở về là nước, Tiểu Linh Hồn trở về Đại Linh Hồn vũ trụ, bản nguyên là đấng Tạo Hóa Tổ Tiên vũ trụ, đấng Tạo lập lên tất cả.

 

Đức Địa Mẫu Âu Cơ thấy 100 người con chăm chú lắng nghe Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo lấy làm vui vẽ, thời nghỉ rằng chúng nó đã lớn, có thể tự lập sanh sống, không cầm nương dựa vào Cha Mẹ nữa. Biết mình không thể ở lâu nơi này. Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ chia hai con cái. 50 con theo Cha làm quen với biển, 50 người con theo Mẹ làm quen với núi rừng.

 

Đức Cha Trời Lạc Long Quân dẩn 50 người con Trai làm quen với biển, từ biển này sang biển khác, từ đảo nọ sang đảo kia, từ Đông sang Tây rồi trở về chỗ củ. Đức Mẹ Âu Cơ cũng thế, Đức Mẹ dẩn theo 50 người con gái, hết núi rừng này sang núi rừng khác, hết núi rừng phương Đông rồi đến núi rừng phương Tây rồi dẩn con về chỗ củ.

 

Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Địa Mẫu Âu Cơ dẩn con khắp cùng trái đất, năm châu bốn biển bằng con đường hàng không đi trên mây, tham quan khi cần thời hạ xuống núi xuống rừng, xuống biển xuống đảo. 100 người con của Đức Âu Cơ, Lạc Long Quân thấy nào là biển rộng mênh mông, nào là núi cao chót vót, nào là rừng xanh thăm thẳm bạt ngàn, nào là đảo biển lô nhô xanh um giữa biển cả mênh mông. Cảnh đẹp như tranh, đất liền sông Hồ uốn khúc, không những tham quan trên biển đảo, núi rừng mà còn tham quan nơi đáy biển, các Động tuyệt đẹp nằm sâu trong lòng núi.

 

Đúng là trên khô ôi là Chim muôn vạn thú, đáy biển mênh mông ôi là chen chúc cá lội tung tăng, nào hang Động, thát nước phủ màn lụa trắng. Hết tham quan trái đất, Cha Trời, Địa Mẫu dẩn con tham quan đến các vì sao gần trái đất, thấy dẩn các con tham quan đến đây là đủ, hai người dẩn các con trở về trái đất, trở về chỗ củ.

 

Trước khi từ giã con cái, Đức Cha Trời Lạc Long Quân dạy bảo lần cuối cùng. Này các con:

   Quả Địa Cầu này tuy là rất đẹp, Quả Địa Cầu Cha tạo ra sau cùng, khi Cha tạo lập vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới, Quả Địa Cầu này chỉ là Quả Địa Cầu trần tục, khí hóa ô trược cặn bả của Hậu Thiên khí hóa, các con đang sống trong cõi trần giã tạm, không phải là cõi vĩnh hằng, thân xác các con cũng thế, cũng chỉ là thân xác phàm tục khác với thân xác của Cha, Mẹ đây, thân xác Tiên Thiên Tinh Hoa vũ trụ.

 

   Khi các con tu luyện tiến hóa Linh Hồn thành tựu, trí huệ giác ngộ, Đạo Đức, nhân hạnh cao các con sẽ bỏ xác phàm, Linh Hồn siêu lên Thượng Giới, thời các con sẽ có thân xác Tiên Thiên, biến hóa như ý, các con muốn già thời nó già, các con muốn trẻ thời nó trẻ, các con muốn nó lớn như quả núi thời nó lớn như quả núi, các con muốn nó nhỏ như cây kim thời nó nhỏ như cây kim. Nói chung ý tưởng các con muốn gì thời pháp thân các con ứng hóa theo nấy, dạo chơi khắp cùng vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới, các con hảy ghi nhớ lời ta dặn, cố gắng tu luyện tiến hóa Linh Hồn, sớm mau trở về Cội Nguồn làm chủ vũ trụ.

 

Trước khi Hai Đấng Tiên Rồng từ giã con cái, đưa tay chỉ về ngọn núi Long Hoa nói:

   Cuối tiểu kiếp thứ 9, sắp chuyển sang tiểu kiếp thứ 10, các con hãy khiến con cháu của các con đến dãy núi Long Hoa ấy làm nhà Rồng Tiên.

 

Nói xong Hai Đấng Tiên Rồng bay lên không trung ẤN dấu Cốt Tiên Rồng xuống ngọn núi Long Hoa, Hai Đấng Tiên Rồng bay xuống đất ôm lấy con lần cuối.

 

Hai tòa sen báu như trái núi nhỏ hào quang rực rỡ, không biết hiện ra từ lúc nào, Hai Đấng Tiên Rồng từ từ bay lên tòa sen, bầu trời đang sáng bổng nhiên tối sầm, thế gian rơi lệ vì Hai Đấng Tiên Rồng ra đi. Hai tòa sen báu từ từ bay vào chốn không gian rồi mất hút trước sự ngơ ngác của 100 người con, 200 con mắt nhìn theo, nhìn theo mãi.

 

Bầu trời hôm qua đã khác với bầu trời hôm nay, bầu trời hôm qua là bầu trời mùa Xuân, bầu trời hôm nay là bầu trời mùa Đông, cái lạnh bơ vơ, mồi côi mồ cút, trên nẽo đường vạn dặm của cuộc đời. Nhân loại anh em sẽ đi về đâu, Ông Bà Tổ Tiên chúng ta làm gì để sống và tồn tại như thế nào.

(Xem Kinh Long Hoa sẽ hiểu rõ hơn).

 

Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn, Nền Quốc Đạo Tiên Rồng triết lý, lịch sử cao thâm, lời lẽ khuôn mẫu như thế, chỉ truyền khẩu cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác, kéo dài đến mấy nghìn năm, thử hỏi làm sao không sai lệt cho được, vì thế cốt cán cơ bản tinh hoa của Nền Quốc Đạo Tiên Rồng dần dần bị mất gốc.

 

Có thể nói buổi ban đầu Quốc Tổ truyền giáo là Rồng, càng về sau con cháu thuyết kể ra loài Rắn nước, rồi bị ngoại xâm thêm bớt, con cháu ghi chép sai đã biến Văn Hóa Cội Nguồn trở thành văn hóa con giun. Từ một lịch sử Cội Nguồn tốt đẹp rồi trở thành một truyền thuyết mơ hồ, ánh sáng chân lý Cội Nguồn đã tắt. Từ đây con cháu Tiên Rồng sa vào cảnh tối tăm, dẩn đến nô lệ, chiến tranh truyền miên khó mà kết thúc, cảnh nồi da nấu thịt, đói nghèo lạc hậu khổ thay.

*********

 

Hết phần 2 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 3 chương 2.

Cái khổ nào hơn khổ lạc Nguồn

Họa cùng khắp nẻo khó qua truông

Non sông tổ quốc đầy u ám

Ngoại xâm thôn tính nghĩ mà thương.

 

 

 

CHƯƠNG 2

 

PHẦN 3

 

MẶT TRỜI CHÂN LÝ LẶNG BÓNG ĐÊM TRÙM XUỐNG NHÂN GIAN

 

Vào 110 trước Công Nguyên lúc đó giấy bút thô sơ mới được ra đời, cho đến 542 sau Công Nguyên mới có dịp hương thịnh nhưng chưa tinh vi mấy. Cũng từ đây các học giã yêu nước Việt Nam hồi tưởng về Cội Nguồn, tìm tòi qua sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè khắp mọi miền đất nước, rồi đúc kết viết lên lịch sử Tiên Rồng một cách mơ hồ làm mối ghiền đoàn kết dân tộc, chung lòng chung sức, bảo vệ giữ gìn quê Cha đất Tổ, đánh đuổi ngoại xâm. Nhưng tiếc thay các Ngài chỉ là người thường tục, chưa tu luyện Đắc Đạo nên không có Huệ Nhãn, Pháp Nhãn thấu suốt quá khứ vi lai, khó mà thấy rõ sự sai lệt trong Văn Hóa Cội Nguồn qua sự truyền khẩu, truyện kể, thờ cúng, thơ ca hò vè, liền cho đó là bản nguyên Văn Hóa Cội Nguồn. Rồi kết thành sử liệu để cho đời sau, sự truyền khẩu qua nhiều thế hệ, thêm bớt làm cho Văn Hóa Cội Nguồn biến dạng mất gốc, có nhiều điểm sai sự thật, dựa vào đó mà kết thành sử liệu thời cũng sai, cái sai dây chuyền.

 

Cũng từ đây Văn Hóa Cội Nguồn mất gốc, trở thành truyền thuyết mơ hồ, anh sáng Văn Hóa Cội Nguồn đã mất, mặt trời chân lý đã tắc, bóng đêm trùm xuống con Cháu Lạc Hồng kể từ đời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống.

 

41 đời Hùng Vương kết thúc, thời những gì tinh hoa Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại cũng theo Vua Hùng biến mất luôn. Từ thời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống, đến thời Hậu Lê cuối thế kỷ thứ 17 sau công nguyên, kéo dài hơn 2000 năm. Các học giã của mỗi triều đại đi qua, mỗi khi tìm hiểu về truyện kể, thờ cúng, thơ ca hò vè, thêm bớt cho hợp tình hợp lý rồi đúc kết thành sử liệu.

 

Nhưng học giã có biết đâu, việc thêm bớt Văn Hóa Cội Nguồn vốn đã sai mà vẽ Rồng vẽ Rắn thêm bớt cho phù hợp tình thế, thời dẫn đến tai hại hơn nữa, chỉ cần ghi chép sai về Văn Hóa Cội Nguồn một li thời cái sai đã đến hàng vạn dặm, đưa lịch sử Tiên Rồng vào chỗ vô lý, nghi ngờ không đáng tin.

 

Lịch sử Tiên Rồng truyền khẩu kéo dài từ thời Hùng Quí Lân đến thời Hùng Duệ Vương kéo dài 2622 năm. Sự truyền khẩu càng về sau. Sự mất đầu, mất đuôi sai lệt càng nhiều. Không còn đúng Văn Hóa Tinh Hoa Hiến Pháp Văn Lang, Nền Quốc Đạo nữa. Mà Quốc Tổ Hùng Vương đã truyền lại cho con cháu chúng ta cách đây gần năm nghìn năm.

 

Các học giã từ thời AN DƯƠNG VƯƠNG trở xuống, khi tìm hiểu về Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng. Liền gặp phải bao sự khó khăn. Vì sự truyền khẩu có nhiều điểm không giống nhau. Đưa người đọc, người nghe đến chỗ phân vân, sanh ra nhiều nghi vấn. Lắm lúc sanh ra ý niệm tội lỗi. Phỉ bán Cội Nguồn dân tộc, tai họa liền gián xuống. Nhà tan cửa nát con cháu ly tán. Khổ ơi là khổ.

 

Các học giả chỉ dựa theo suy đoán của mình, dẫn đến kết tập sử liệu. Đưa Văn Hóa Cội Nguồn chuyển sang giai đoạn giả tưởng. Vô tình mở màn nội chiến. Mở màn cho các thế lực ngoại xâm. Truyền thống mất, Văn Hóa Cội Nguồn mơ hồ không đủ cơ sở lý luận vững chắc, thiếu đi mạch lạc khoa học,Văn Hóa Cội Nguồn có nhiều điểm bất ổn.

 

Dựa vào nhược điểm bất ổn này. Lại thêm lòng tin của Đại Đa số con cháu phân vân gió chiều nào ngã theo chiều ấy. Đây là cơ hội cho các học giã nước ngoài, thuộc hạ cao cấp chính trị với tính toán mưu đồ ngoại xâm. Họ góp ý thêm bớt sữa chữa tưởng chừng như là thiện chí. Nào hay đâu đó là một âm mưu lớn. Ếm đối tài tình, chồng chất thêm nhiều mâu thuẩn. Càng học càng thấy nhiều phi lý rồi trở thành mất gốc hẳn.

 

Một dân tộc mất đi Văn Hóa Cội Nguồn mất đi bản sắc dân tộc. Thời sức mạnh tinh thần dân tộc ấy sẽ bị yếu ớt, suy giảm đoàn kết dân tộc. Đó là lúc thuận lợi cho cuộc mưu đồ xâm lược ngoại ban. Xâm lược bằng học thuyết, kèm theo văn hóa nghệ thuật. Nhất là xâm lược một loại văn hóa độc hại. Làm cho tinh thần đi vào sa đọa. Xâm lược bằng vũ lực, biến dân tộc ta trở thành dân tộc nô lệ. Cụ thể hơn một nghìn năm, dưới ách thống trị của Tàu. Hơn trăm năm dưới sự cai quản của Tây. Lại thêm nồi da nấu thịt từng ngày. Càng thêm lạc hậu đọa đày gian truân.

*********

 

Hết phần 3 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 2.

Việt Nam con cháu Tiên Rồng

Trở về Nguồn Cội lẫy lừng năm châu

Văn Lang Văn Hóa cao sâu

Anh linh truyền thống rạng bầu tinh hoa

Lạc Nguồn lạc Cội Ông Cha

Hết mong độc lập đọa sa khốn cùng

Nghìn năm nô lệ tan thương

Cũng vì lạc Cội mất Nguồn mà ra.

 

 

 

CHƯƠNG 2

 

PHẦN 4

 

THÀ MỘT SỰ ĐÚNG CÒN HƠN MỘT THÚNG SAI

 

Thà giữ lấy một điều đúng còn hơn ôm trọn một thúng sai. Như chúng ta đã biết, các học giã của các triều đại. Mỗi khi dựng dậy Hồn Thiên dân tộc, phải dựa vào Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng Văn Hóa Cội Nguồn đã thất truyền từ lâu. Khi các học giã nhất là thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê. Nổ lực ngày đêm không mệt mỏi. Tìm hiểu về Cội Nguồn Tiên Rồng cũng như về gia thế Hùng Vương liền gặp phải bao sự khó khăn. Nhưng không thể vì sự khó khăn ấy mà các học giã lại bỏ qua. Thu nhập chứng cứ, qua thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè. Tôm gốp lượm lặc dù đúng hay sai cũng quí giá cả, đúc kết thành sử liệu.

Như: (Lỉnh Nam Chính Quái), (Việt Điện U Linh), (Việt Sử Lược), (Đại Việt Sử Toàn Thư) và còn nhiều bộ sách khác nữa v.v… Sự thêm bớt qua các sử liệu, sự mâu thuẩn các câu truyện kể, sai lệch về thờ tự không chỗ nào giống chỗ nào.

 

Tuy sử liệu để lại nhiều như vậy, nhưng Văn Hóa Cội Nguồn vẫn không mấy sáng sủa, chỉ là con đôm đốm không đủ sức soi đường mở lối cho con cháu đi theo. Tuy ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn có lúc chỉ là con Đôm Đốm nhưng cũng khó khăn cho con Cháu gìn giữ tôn thờ, tuy chỉ còn một phần đúng. Còn hơn ôm trọn một khối sai. Tôn Thờ Văn Hóa Độc Hại ngoại xâm, làm ngu si mù quán dẫn đến nô lệ.

 

Một khi nô lệ, thời dân ta mất hết những Quyền cơ bản mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người, cho mỗi dân tộc, Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Quyền mưu cầu hạnh phúc, Quyền sống, Quyền được sống. Nếu chúng ta khơi dậy và đòi lại những quyền cơ bản ấy, thời thế lực thống trị ngoại ban áp chế đàn áp ngay. Nhất là chúng ta khơi dậy Văn Hóa Cội Nguồn, thời thế lực ngoại xâm dập tắc tiêu diệt ngay. Vì họ sợ dân ta vốn mang hai chữ Đồng Bào, Đoàn Kết nổi dậy đánh đuổi chúng ra khỏi Non Sông Tổ Quốc. Các thế lực ngoại xâm rất sợ văn hóa Chủ Nghĩa Tiên Rồng. Vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Đại Đồng, có sức mạnh dời non lấp biển. Một thứ Văn Hóa Linh Thiên, có một không hai trong nhân loại con người.

 

Văn Hóa Cội Nguồn sống dậy. Mặt Trời Nhân Nghĩa Đạo Đức tỏa sáng, làm khiếp đảm tà ma ác Đạo của các thế lực ngoại xâm. Cơ may cho các thế lực ngoại xâm, vì Văn Hóa Cội Nguồn đã bị thất truyền nên chúng mới có cơ hội xâm lược nước ta. Chúng dựa vào yếu điểm mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc làm cái cớ để bài xích dập tắt Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại. Hầu mong cai trị ta vĩnh viễn.

 

Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng là một Chủ Nghĩa cao tột, không có một Chủ Nghĩa nào có thể vượt qua. Văn Hóa Tiên Rồng là Văn Hóa Linh Thiên tối thượng. Một dân tộc đi đôi với truyền thống Linh Thiên như thế, thử hỏi ngoại xâm không sợ truyền thống Tiên Rồng sao được. Nên ngoại xâm lúc nào cũng muốn tiêu diệt đi để dễ bề xâm lược. Chúng cố tìm sơ hở, sự thất truyền trong Văn Hóa Cội Nguồn của chúng ta để mà bài xích. Biến truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn chúng ta thành truyền thống, từ Văn Hóa Rồng thành văn hóa con gium để chúng xơi, chúng đạp dưới chân của chúng.

*********

 

Hết phần 4 chương 2, mời xem tiếp phần 5 chương 2 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh tối cao, quốc bảo của toàn thế giới nói chung, dân tộc Việt Nam nói riêng. Chỉ cần đọc qua một lần không những tội ác vô lượng kiếp tiêu tan, mà còn thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không gì là khó . Nếu biên chép in ấn truyền bá cho đời, thời không gì phước đức hơn. Ông Bà, Cha Mẹ siêu thăng về các cõi trời hưởng phước, con cái cháu đời đời vinh hiễn, còn bản thân thời thường làm vua các cõi trời giáo hóa vô lượng vô biên thiên chúng. Uy danh khắp cùng vũ trụ.

 

 

 

CHƯƠNG 2

 

PHẦN 5

 

CÂY CÓ GỐC NỞ CÀNH XANH NGỌN

NGƯỜI MẤT NGUỒN PHƯỚC CẠN ĐỨC KHÔ

 

Các thế lực ngoại xâm luôn luôn đánh phá bài bác Văn Hóa Cội Nguồn của chúng ta. Làm cho dân tộc chúng ta mờ mịt yếu đi, tan rả đoàn kết. Đưa đất nước ta đến con đường nô lệ.

 

Vậy mà có người cũng nghe theo. Tệ hại hơn nữa, có người tự cho mình là trí thức. Nghe theo sự xuyên tạc của ngoại ban, ếm chặn sự phát triển Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống Linh Thiêng tốt đẹp của chúng ta. Lắm khi còn tỏ ra bất kính đối với các bậc Cha - Anh tiền sử đã có công vun đắp lên vẻ đẹp Non Sông Tổ Quốc, cũng như Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại. Để cho con cháu chúng ta vươn lên. Những kẻ ấy thật đáng phê bình nếu đúng luật thời những kẻ ấy nghiêm trị thích đáng.

 

Đã là dân tộc Rồng Tiên. Con dân Đại Việt, chúng ta phải tin tưởng những gì ông cha ta truyền lại. Dù cho đó có nhiều chỗ mâu thuẩn chưa giải thích được. Chúng ta cũng cần trân trọng gìn giữ. Chúng ta là con cháu Tiên Rồng, thời phải tận trung, chí hiếu, tôn thờ bảo vệ gìn giữ Cội Nguồn Văn Hóa Tiên Rồng.

 

Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng do Quốc Tổ Hùng Vương sáng lập và truyền lại cho chúng ta, sự ra đời của Nền Quốc Đạo làm chóa loại dân tộc Văn Lang. Có thể nói ở vào thời kỳ ấy, khắp cùng thế giới. Chưa có một Nền Quốc Đạo nào ra đời, ngay cả Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, các Giáo Đạo khác nữa v.v… Cũng chỉ là ở giai đoạn sau này hàng nghìn năm mà thôi.

 

Việc thất truyền của Nền Quốc Đạo là do truyền khẩu quá dài. Lại không có giấy bút để lưu chép, dẫn đến sai lệch về sau càng lớn. Những gì còn sót lại ở cuối thời Hùng Vương tức là Hùng Duệ Vương trước công nguyên. Kết thúc 258 chuyển sang giai đoạn ÂU LẠC, thời Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng còn sót lại cũng đi theo Vua Hùng sau cùng về Trời. Từ đây về sau Vua là trên hết, không còn Hiến Pháp, Luật Pháp trên hết nữa. Vua muốn làm gì thì làm, cá mè một lứa như các nước bạn mà thôi. Thôn tính lẩn nhau tranh giành quyền lực, được là Vua thua là giặc, giặc và Vua cũng cùng chung một loại (Vô Đạo) độc trị mà thôi, dân chúng lầm than khốn khổ. Nếu không bị ngoại xâm thống trị, thời cũng bị Chế Độ Độc Tôn, Độc Trị đè bẹp mà thôi, không bao giờ có tự do, công bằng xã hội.

 

Nếu nói toàn dân kháng chiến bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ Quốc. Đất nước là của chung, Tổ Quốc là của chung, thời phải sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, dựng nước giữ nước mà thôi. Không ai là tối cao, chỉ có Hiến Pháp, Luật Pháp là tối cao. Dân, Vua, Quan bình đẳng, có tội đều bị xử như nhau. (Tối cao của nước Văn Lang không phải là Vua Hùng mà chính là Hiến Pháp, Luật Pháp của Nền Quốc Đạo). Cái Đạo cao quí của Vua, Quan, Dân thờ.

 

Văn Hóa Cội Nguồn Hiến Pháp Quốc Đạo Văn Lang, ở đoạn kinh thờ phụng nói. Cha Trời, Địa Mẫu sinh ra Nhân Loại Bình Đẳng. Phật, Tiên, Thánh, Thần, Chúa, phàm nhân, Bình Đẳng, tất cả đều là anh em một nhà vũ trụ. Chỉ thờ Tổ Tiên Khai Hóa hiện thân là Trời (Cha Trời Mẹ Trời) sau đó là thờ Ông Bà, kế nữa là thờ Cha Mẹ, người sanh ra mình. Còn xã hội là thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, Vua, Quan, Dân chúng bình đẳng. Nói tốm lại việc thất truyền Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc là do truyền khẩu quá dài, lại không có giấy bút lưu chép, khi có giấy bút lưu chép, thời chỉ lưu chép Tinh Hoa còn sót đọng lại mà thôi.

 

Các học giã qua các Triều Đại. Lưu chép lịch sử Văn Hóa Cội Nguồn chỉ dựa trên sự thờ cúng, truyện kể, thơ ca, hò vè, các ngài nào hiểu, đó chỉ là cái vỏ của Văn Hóa Cội Nguồn mà thôi. Còn Tinh Hoa lớp ruột của Văn Hóa Cội Nguồn thời các ngài không tìm thấy được, vì các ngài là người phàm tục, không có Nhãn Huệ để thấy biết Quá Khứ, Hiện Tại vị lai. Chỉ có những bật Đại Giác Ngộ dùng Huệ Nhãn, Pháp Nhãn thấy rõ quá khứ vị lai, tôm gốp tinh hoa vũ trụ làm lợi ích cho toàn nhân loại con người.

 

Còn người thường tục, dù đó là Bác Học, Tiến Sĩ, nếu không tu luyện đến cảnh giới cao, làm chủ tâm mình, tánh mình an trụ vào Tạo Hóa, thời khó mà hiểu rõ Thật Tướng, Thật Tánh vũ trụ, khó mà thấu suốt Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.

*********

 

Hết phần 5 chương 2, mời xem tiếp phần 1 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh vô cùng quý hiếm báu vật của trần gian nói chung, nói riêng dân tộc Việt Nam. Có duyên gặp được bộ kinh nầy thời coi như người đó đã tu luyện vô lượng ức kiếp. May mắn thay cho con cháu Việt Nam làm chủ báu vật kho tàng tri kiến vô giá nầy. Chỉ cần đọc tụng một câu cũng chuyển họa thành phúc, huống chi là truyền bá bộ kinh nầy cho nhân loại anh em thời làm vua các tần trời là chuyện hiển nhiên không có chi là bàn cải. Nơi nào có bộ kinh nầy, thời nơi đó có Cha Trời ngự trị, Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa gia hộ. Hồn thiêng dân tộc che chở, khí thiêng sông núi phù trì, luôn được bình yên vạn sự.

Thấy Thiên Bút như thấy Trời Cha

Thành tâm cung kính

Nạn khỏi tai qua

Cầu chi đặng nấy, phước muôn vạn đời.

 

 

 

CHƯƠNG 3

 

PHẦN 1

 

QUỐC ĐẠO TIÊN RỒNG

 

Quốc Đạo là Đạo khai dựng lập lên đất nước Văn Lang. Bất chiến tự nhiên thành. Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Đạo Tiên Rồng là Đại Đạo cao quí. Chí Tôn vô thượng, Đại Đạo Nguồn Cội nhân loại con người, Chủ Nghĩa Hòa Hợp Dân Tộc, Chủ Nghĩa Đại Đồng.

 

Hiến Pháp Văn Lang Nền Quốc Đạo Tiên Rồng ở đoạn thờ tự nói. Chỉ có bốn cấp trên đầu, trên cổ thiên hạ chúng ta, hay còn gọi là bốn ngôi.

1: Đó là Tổ Tiên Khai Hóa. Đấng tạo lập lên vũ trụ.

2: Là Hai Đấng Cửu Huyền Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ.

3: Ông Bà Tổ chúng ta cũng như ông bà nhiều đời nhiều kiếp, ông bà hiện tại.

4: Là Cha Mẹ sinh ra chúng ta song thân Phụ Mẫu.

Còn ta là ngôi số 5 ngôi con cháu.

Chúng ta lạy bốn lạy là lạy bốn ngôi trên. Còn bái bốn bái. 

1: Là ơn Đồng Bào.

2: Là ơn Tổ Quốc.

3: Là ơn Chúa ơn Phật, Thánh, Tiên, Thần.

4: Là ơn Thầy, Cô dạy dỗ.

Nói chung 8 ngôi này là 8 ngôi Chí Thánh Chí Linh, công ơn như non như biển.

 

Trong 8 ngôi ấy có 2 ngôi không thể nghỉ bàn. Đó là Ngôi Tổ Tiên Khai Hóa. Ngôi Cửu Huyền Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Hai ngôi này tuy 2 là 1, tuy 1 mà 2, có thể nói Tổ Tiên Khai Hóa khai tạo lập nên vũ trụ rồi hiện thân ra Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu để mà cai quản điều hành vũ trụ, sanh con đẻ cháu. Chánh Thân, Chánh Mẫu của nhân loại con người. Hiến Pháp Văn Lang Kinh Cội Nguồn nói. Khi nào nhân loại hướng về Cội Nguồn nơi sanh ra Linh Hồn thể xác của họ, thời Chủ Nghĩa Đại Đồng sẽ ra đời, nhân loại sẽ sống chung trong nền Hiến Pháp vũ trụ.

 

Quốc Tổ Hùng Vương thừa lịnh của Đức Cha Trời khai lập lên nước Văn Lang, đi đôi với Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Là Đức Chí Tôn thừa hành theo di chí của Tổ Tiên, đặc nền móng Thiên Đạo, Đạo Trời xuống chốn nhân gian. Đưa nhân loại trở về vũ trụ, hội nhập Cội Nguồn đến với Đấng Cha Ông, Đấng Chúa tối cao vũ trụ.

 

Có thể nói Quốc Tổ Vua Hùng đã để lại cho dân Văn Lang ngày xưa, dân tộc Việt Nam ngày nay, hai di sản quí hiếm.

1: Đó là Tổ Quốc Non Sông.

2: Là Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc.

 

Những kẻ thiếu hiểu biết, không có lòng trung nghĩa hiếu kính, xem thường Văn Hóa Cội Nguồn. Nhưng họ biết đâu Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Chí Tôn vô thượng, linh thiên thuộc hàng bật nhất trong trời đất.

 

Sự bừa bác của những kẻ thiếu hiểu biết, chẳng đem kết quả tốt đẹp nào đến mà phải nhận lãnh đầy tai họa, không những tai họa cho bản thân mà còn tai họa sang con cháu. Cái tội chống phá Cội Nguồn, chia rẽ Đồng Bào, phản bội Cha Ông, nòi giống Tiên Rồng thời khó có thể mà tha thứ được. Loại người như vậy đã trở thành những kẻ đại gian đại ác, đại bất trung, đại bất hiểu. Chạy theo ảo tưởng dục vọng cuồn điên, làm hại con cháu, làm hại xã hội. Nếu không từ bỏ, một phen chết đi liền sa ngay xuống Địa Ngục, khó mà đầu thai trở lại làm người, vì đã phạm vào tội Đại Nghịch, đã phá Tổ Tiên, Cội Nguồn, Đấng Ông Cha lập lên vũ trụ và con người.

 

Quốc Tổ Hùng Vương là Chí Tôn Thiên Đế, con lớn của Đức Cha Trời đầu thai xuống trần, dựng nước Văn Lang, mở ra Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng, theo Thiên ý của Đức Cha Trời, nên Quốc Tổ có quyền năng vô hạng. Những kẻ hủy bán Quốc Tổ sẽ bị giảm tuổi, lại gặp bao điều xui ruỗi, Thần, Thánh, Phật, Tiên không độ mạng, con cháu sanh nghịch tử.

 

Những người trước đây không hiểu nên đã phạm tội. Nên Long Thần Hộ Pháp, Thần Thánh còn tha thứ. Đã gặp lời Kinh dạy rồi mà còn vi phạm, dù là người ngoại Quốc cũng không tránh khỏi đại họa, huống chi là con cháu Tiên Rồng. Chỗ nào cũng trời, chỗ nào cũng đất, Thiên La Địa Võng tránh đâu cho thoát.

 

Tổ Tiên ta thường dạy, dù con cháu có đi đến đâu, nơi đâu, chân trời góc biển cũng mang triết lý lời dạy Ông Bà Tổ Tiên đến đó để thờ phụng, giữ gìn Văn Hóa Cội Nguồn đừng để mất. Lời dạy ấy đã thấm nhuần trong tim của người dân Đại Việt, vì vậy con cháu Đại Việt đi đến đâu, thời đền thờ Cha Trời Lạc Long Quân, đền thờ Địa Mẫu Âu Cơ, đền thờ Hùng Vương đến đó. Dù là ở nước ngoài cũng thế huống chi là trong nước, có như vậy mới xứng đáng con Lạc cháu Hồng, Con Rồng Cháu Tiên.

Cây có Cội Nước có Nguồn

Con Chim có Tổ con người có Tông

Mất đi Nguồn Gốc Tiên Rồng

Như cây mất Gốc, như sông mất Nguồn.

 

PHẦN HỎI ĐÁP:

 

Hỏi: vì sao ta phải yêu mến Văn Hóa Cội Nguồn?

 

Đáp: vì Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Kim chỉ Nam. Là con đường truyền thống để cho con cháu đi theo, hết thế hệ này đến thế hệ khác, là con đường dẩn ta đến An Lạc. Không những An Lạc về vật chất mà cả về Linh Hồn, con đường Cực Lạc Quốc, sống mãi trong Tự do, Độc lập, Hạnh phúc.

 

Hỏi: Vì sao ta phải bảo vệ và giữ gìn Cội Nguồn?

 

Đáp:

Cây có Cội Nước có Nguồn

Con Chim có Tổ, con người có Tông

Mất đi Nguồn gốc Tiên Rồng

Như Cây mất gốc, như sông mất Nguồn.

Hay là:

Cây có gốc, nở cành xanh ngọn

Người có Nguồn người nở mùa xuân

Uy phong tỏ rạng anh linh

Vững bền Độc Lập, vững bền tự do.

 

Dân Tộc nào đánh mất truyền thống Cội Nguồn. Thời dân tộc đó, tan rã sự đoàn kết, dẩn tới nô lệ. Vì vậy bảo vệ và giữ gìn Cội Nguồn. Là bổn phận, là trách nhiệm đối với Con Cháu Rồng Tiên. Đó là nét cơ bản của Đạo pháp dân tộc. Thể hiện lòng Trung, Hiếu đối với Non Sông Tổ Quốc. Đối với Cha Ông.

 

Hỏi: Quốc Tổ Hùng Vương để lại cho chúng ta những gì?

 

Đáp:

Vua Hùng dựng nước dựng non

Dựng Nền Quốc Đạo vàng son Tiên Rồng

Công lao trời bể non sông

Cháu con mãi mãi nhớ ơn công người.

 

Quốc Tổ Hùng Vương là Đấng Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần. Là vì Quốc Tổ Thiên Tài có một không hai trong hàng Đế Vương thời đó, từ Đông sang Tây. Quốc Tổ mở mang bờ cõi nước xích Quỷ thành nước Văn Lang, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Như vậy Quốc Tổ Hùng Vương đã để lại cho chúng ta hai di sản quí hiếm. Đó là: Non Sông  Tổ Quốc và Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc. Công ơn ấy muôn đời không trả nỗi.

 

Hỏi: Vì sao Nền Quốc Đạo Tiên Rồng lại thất truyền?

 

Đáp: Vì thời xa xưa ấy. Dân Tộc Văn Lang nói riêng, nhân loại thế giới nói chung. Chưa chế tạo ra được giấy bút, chỉ dùng da Thú thay cho giấy. Lại thêm chữ viết chưa được hoàn hảo, lấy việc khắc tượng, vẽ hình, họa cảnh lên đất lên đá lên cây, thay cho chữ viết. Truyền dạy cho thế hệ sau. Sự truyền dạy ấy vừa lạc hậu vừa không bền vững, vừa khó diển đạt ý nghĩa của Văn Kinh. Nên việc lưu chép Kinh sử khó thực hiện được. Mọi chuyện chỉ truyền khẩu cho nhau, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cứ thế kéo dài mấy nghìn năm. Tam sao thất bổn. Thử hỏi y văn sao được. Dẫn đến thất truyền là điều hiển nhiên khó tránh khỏi. Dẫn đến mất bốn gốc Tinh Hoa Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc.

 

Hỏi: Vì sao Dân Tộc ta dẫn đến đói nghèo, lạc hậu, chiến tranh truyền miên?

 

Đáp: Ánh sáng chân lý Cội Nguồn đã tắt. Bóng đêm trùm xuống con cháu Lạc Hồng, mở màn cho các thế lực ngoại xâm. Một khi truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn yếu đi. Thời sức mạnh yêu nước yêu nòi giảm sút. Thậm chí còn quên đi nữa là khác, đoàn kết dân tộc tan vở. Đó là lúc thuận lợi cho cuộc mưu đồ xâm lược ngoại ban. Xâm lược bằng học thuyết chính trị, văn hóa độc hại, xâm lược bằng vũ lực. Họ truyền bá văn hóa độc hại, làm mê hoặc tinh thần của dân tộc ta. Sau đó là thôn tính non sông Đại Việt, con cháu Tiên Rồng thành con cháu nô lệ. Cụ thể hơn một nghìn năm dưới ách thống trị của Tàu. Hơn trăm năm dưới sự cai quản của Tây. Lại hơn năm mươi năm nồi da nấu thịt từng ngày. Non Sông Đại Việt đi vào thê thảm, đói nghèo, lạc hậu, chán chê, chiến tranh, loạn lạc ê hề chiến tranh.

 

Hỏi: Vì sao các thế lực ngoại xâm rất sợ Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc?

 

Đáp: Vì Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa Linh Thiên. Đầy chính nghĩa ung đúc nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết yêu nước yêu dân tộc. Mạnh như Rồng, đẹp như Tiên. Văn Hóa của sự Độc Lập, Tự Do, chủ quyền hạnh phúc. Con người đứng vững là nhờ đôi chân mạnh mẽ. Dân tộc đứng vững là nhờ dân trí yêu nước, yêu văn hóa truyền thống vững vàng. Nhất là thứ văn hóa đầy Chính Nghĩa. Mạnh như Rồng, đẹp như Tiên ấy, thời ngoại xâm không sợ sao được.

 

Hỏi: Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, Thiên Chúa Giáo có trước hay sau Văn Hóa Cội Nguồn. Quốc Đạo Tiên Rồng?

 

Đáp: Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ ra đời cách đây năm nghìn năm. Còn Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo ra đời cách đây hơn 2 nghìn 5 trăm năm mà thôi. Bằng một nữa thời gian Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc ra đời. Còn Thiên Chúa Giáo thời mới sau này, hai nghìn năm sau Văn Hóa Cội Nguồn ba nghìn năm. Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn là Văn Hóa lâu đời. Có trước tất cả các Văn Hóa , Đạo Giáo Tôn Giáo.

 

Hỏi: Vì sao Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ là Đạo của Vua thờ,  còn dân không được thờ?

 

Đáp: Đó là cách đây hơn mấy nghìn năm thời Hùng Vương. Còn thời này thời dân có quyền được thờ. Văn Hóa Cội Nguồn là Đại Đạo tối cao vũ trụ. Đạo Luật công bằng xã hội, cán cân công lý dùng để trị Quốc. Cứu dân độ thế, cái Đạo của Vua thờ. Thế Thiên hành Đạo, Hành theo Đạo Luật vũ trụ.

 

Hỏi: Bừa bác chống phá Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ, có tội không?

 

Đáp: Phải nói là Đại Tội. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa thường dạy rằng. Thuận Trời thời sống hạnh phúc. Chống Trời thời họa đến, chết rồi hồn chẳng được yên thân. Muôn kiếp luân hồi đọa đày khốn khổ, khó mong trở lại làm người, luân hồi mãi trong Địa Ngục. Ngạ Quỷ, súc sanh mà thôi.

 

Hỏi: Tin theo, làm theo Văn Hóa Cội Nguồn thời được lợi ích gì?

 

Đáp: Còn gì vui sướng hơn nghe theo, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Nếu kể ra lợi ích ầy, thời dù kể đến trăm nghìn năm cũng không hết. Đây chỉ là kể sơ qua lợi ích, tin theo, làm theo. Lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn lời dạy của Đức Cha Trời, 10 lợi ích cơ bản.

1: Là Tổ Tiên Khai Hóa, Cha Trời, Địa Mẫu. Phật, Thánh, Tiên, Thần Chúa thường hộ trì, độ mạng, che chở, phù hộ, họa tiêu phước đến, cầu chi đặng nấy, muốn gì đặng nấy. Nếu điều ước muốn không trái với Đạo Đức, nếu công càng lớn Đức càng cao, thời cầu càng linh.

2: Con cháu hiếu thuận, hiển đạt công danh, ông bà siêu thăng, cha mẹ tăng tuổi thọ, niềm vui kéo đến, tai nạn giảm đi cải số, chuyển họa thành phúc, chuyển nghèo thành giàu, dư ăn dư để. Bệnh tật tiêu trừ, bệnh nặng chuyền thành bệnh nhẹ, bệnh nhẹ chuyển thành hết bệnh. Nhờ lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn. Rời xa tội lỗi, tạo lập nhiều Công Đức. Nên đã chuyển đổi số mạng. Từ họa chuyển ra phúc, tuổi về già không lẩn não, Linh Hồn minh mẩn, Siêu sanh về thượng giới. Sống trong Cực Lạc.

3: Không sanh vào ba ác Đạo, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, phước lớn thời sanh về Trời, phước nhỏ thời sanh trở lại làm người, hưởng phú quí vinh hoa giàu sang, trí huệ sáng láng, gia đình êm ấm. Muôn phúc nghìn lành. Vô cùng tọa nguyện.

4: Nếu là dân thường nhờ lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn, thời lên chức Thần, nếu là Thần thời lên chức danh Phật, Thánh, Tiên, vào ba ngôi chí Bảo, Pháp Tạng, Luật Tạng, Thiên Tạng, nếu là Phật, Thánh, Tiên, có công trong Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ, thời lên ngôi Phật Tổ, Thánh Tổ, Thiên Tổ, Chí Tôn vô thượng.

5: Trí Huệ vô ngại, biện tài vô ngại, chuyển đại pháp Luân, thay Trời hành Đạo làm theo thiên ý Đạo Trời.

6: Phước báo vô tận, trang nghiêm thù thắng, uy quyền tột đỉnh, Báo Thân có đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp, Pháp Thuật, Thần Thông, Trí Huệ không thể nghỉ bàn vô tận.

7: Bất sanh - Bất diệt - Bất cấu -  Bất tịnh - Bất tăng - Bất giảm trong sạch. Như hoa sen thường còn vô lượng thọ không còn cái thọ nào hơn.

8: Nhất thiết chủng trí, đồng nhất một trí, quá khứ vị lai, chỉ là một trí. Trí vũ trụ.

9: Viên mãn trí Huệ, viên mãn Hạnh Nguyện vào ngôi Chánh đẳng Chánh giác, an trụ niết bàn (Vô Trụ) Tự Nhiên Trụ.

10: Toàn năng, Toàn giác làm chỗ tựa vững chãi cho toàn pháp giới cháu con.

*********

 

Hết phần 1 chương 3 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 3.

 

 

 

CHƯƠNG  3

 

PHẦN  2

 

ĐI TRƯỚC VỀ SAU

 

Các Giáo Đạo ra đời sau Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ. Nhưng lại có dịp truyền bá rộng rãi. Nhằm lúc con người đang trên đà phát triển văn minh về vật chất, tuy giấy bút còn thô sơ, có cơ hội lưu chép Kinh Luân. Cũng như tạc tượng họa hình mỗi ngày một thêm phong phú, dễ in sâu vào lòng người. Lại thêm Kinh luân văn tự lưu truyền không thay đổi, nên không có sự thất truyền, vì vậy các Tôn Giáo, Đạo Giáo đứng vững, vì bổn gốc không mất và lần lần lan truyền khắp cùng thế giới.

 

Còn Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ ra đời trước các Giáo Đạo Tôn Giáo hàng nghìn, nghìn năm. Gặp lúc con người còn lạc hậu về vật chất, chưa chế tạo ra giấy bút, thời lấy đâu ra giấy bút để lưu chép Kinh Luân. Chưa nói đến chữ viết còn lạc hậu thô sơ ở dạng tượng gạch, tượng hình. Nên việc lưu truyền Chánh Giáo rất hạn hẹp, rồi dần dần đi vào bế tắc. Dẩn đến thất truyền, không còn phát huy rộng lớn được nữa, đi vào bế tắc, vì vậy Văn Hóa Cội Nguồn tưởng như là mất hẳn, bất ngờ đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái rực thắm mùa xuân cả đất trời. Có thể nói Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng ra đời trước nhưng lại nở hoa sau, đi trước về sau bao chót. Đây là điều bí mật Thiên Cơ Đức Cha Trời Lạc Long Quân sắp xếp như vậy, nở hoa Văn Hóa hồi kết thúc của tiểu kiếp thứ 9, mở màn cho tiểu kiếp thứ 10.

 

Thời kỳ Văn Hóa Cội Nguồn ra đời. Đạo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa ở đỉnh cao làm sáng rực Nền Quốc Đạo Tiên Rồng, ít có người dối trá, bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu, ngược lại họ còn Trung Hiếu Nhân Nghĩa vô cùng. Có thể nói người xưa thực hiện Đạo làm người rất đạt. Biết liêm sỉ, biết hổ thẹn khi làm sai, công minh chính trực, kính trên nhường dưới, tôn ti trật tự, khiêm tốn dung hòa, anh em họ tộc, chồng vợ cha con có khuôn phép. Vua, Tôi, Quan, Tướng giữ lễ hàng đầu, xã hội nghiêm minh, tất cả đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, thật thà chất phát lòng ngay thẳng, tham lam tật đố ít sanh, yêu nước yêu non lòng nhường nhịn, tướng vương, tôi tớ rất dung hòa, xã hội muôn phần đều tốt đẹp, thái bình Độc Lập khắp Âu Ca, dân giàu nước mạnh luôn phồn thịnh, văn minh Quốc Đạo thật sâu xa, Độc Lập kéo dài xuân cùng khắp, mấy nghìn năm hạnh phúc mấy ai qua. Nước Văn Lang kéo dài Độc Lập mấy nghìn năm, phần lớn là do Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng ung đúc sự bền vững của thái bình thịnh trị, không có một quốc gia nào trên thế giới thời đó sánh kịp.

 

Lấy trường dạy Đạo thay thế cho nhà tù, cải tạo gội rữa tâm linh bằng Văn Hóa Cam Lồ Cội Nguồn, ít dùng đến bạo lực đàn áp khổ sai, hình ảnh Đức Quốc Tổ lúc nào cũng coi như là Đấng Cứu Thế. Mà thật đúng vậy, Đức Quốc Tổ là con lớn của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần, đấng cứu thế, nên Thiên Thần, Địa Thần luôn luôn theo phò trợ Đức Quốc Tổ. Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Tiên Rồng. Là nền Quốc Đạo cao quí của toàn dân. Cái Đạo Quốc Vương tôn thờ. Vì vậy sự truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn đều nằm trong dòng dõi Vương tộc. Trải suốt một dọc đường 2622 năm Vương trước truyền Vương sau tôn thờ gìn giữ.

 

Y Giáo chơn truyền. Quốc Vương trước truyền cho Quốc Vương kế vị sau mà thôi. Cũng vì vậy tiếp nhận Văn Hóa Cội Nguồn. Cũng có nghĩa là tiếp nhận Thiên Ấn chiếu chỉ của Trời. Thay Trời hành Đạo.

 

Đến cuối giai đoạn Hùng Vương thời Hùng Vương thứ 41 thượng hạ Hùng Vương. Hùng Vương đời thứ 18 hạ Hùng Vương. Hùng Duệ Vương là Hùng Vương sau cùng. Mang theo Y Giáo Văn Hóa Cội Nguồn còn sót lại về trời. Không truyền xuống AN DƯƠNG VƯƠNG. Có thể nói Thiên Ấn Cội Nguồn đến thời Hùng Vương cuối cùng là chấm dứt.

 

AN DƯƠNG VƯƠNG lên ngôi Quốc Vương làm chủ nước Văn Lang. Vì không có Y Giáo Thiên Ấn. ẤN truyền. Nên An Dương Vương đổi sang niên hiệu ÂU LẠC. Nước Văn Lang chuyển sang giai đoạn nước ÂU LẠC. Niên hiệu Hùng Vương chuyển sang niên hiệu AN DƯƠNG VƯƠNG. Quốc Tổ Hùng Vương để lại hai Di Sản. Nhưng đến thời ÂU LẠC An Dương thời chỉ còn lại một Di Sản mà thôi. Đó là Tổ Quốc Non Sông. Còn Thiên Ấn, Văn Hóa Y Giáo Cội Nguồn không truyền xuống nữa. Từ đây trở về sau là thời loạn. Mạnh là Vua thua là giặc. Cảnh tượng nồi da nấu thịt luôn luôn xảy ra. Chờ cho Thiên Bút ra đời. Thời Thiên Ấn Văn Hóa Cội Nguồn mới trở lại non sông và NGÀY ĐÓ ĐÃ ĐẾN. Ngày mà Thiến Ấn Thiên Bút ra đời.

 

*********

 

Hết phần 2 chương 3 mời xem tiếp phần 3 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Để hiểu rõ nguồn gốc sâu xa các dân tộc ở tiểu kiếp thứ 9 nói chung, cũng như dân tộc Văn Lang, nay là dân tộc Việt Nam nói riêng. Thời chúng ta mới hiểu thế nào những lời tiên tri về dân tộc Việt Nam, cũng như đất nước việt Nam. Có thể nói những gì qua sấm truyền, cũng như cơ bút ứng linh truyền ra tất cả đều đúng sự thật. Nhưng chỉ có các bậc đại giác ngộ mới thấu rõ cơ bút ứng linh nầy. Còn những suy luận tần thường thời không thể nào trúng được. Hầu hết là đón sai luận sai không trúng những gì cơ bút đã truyền dạy. Và chỉ có Thiên Ấn, Thiên Bút xuất hiện mới làm sáng tỏ những lời cơ bút tiên tri báo trước. Nói về đất nước Việt Nam. Con người Việt Nam, Văn Hóa Việt Nam. Tỏ rạng khắp năm châu bốn biển.

Long Hoa Mật Tạng quá huyền vi

Tu nhanh kẻo trể mới kịp kỳ

Vận hội Tiên Rồng kìa tỏ rạng

Đại Đồng Đại Đạo một đường đi

Muốn hiểu Việt Nam đặng thể nào

Long Hoa Mật Tạng đọc xem vào

Huyền Cơ ẩn hiện trong kinh giáo

Quốc Tổ anh linh sáng làm sao.

 

 

 

CHƯƠNG  3

 

PHẦN  3

 

NGUỒN GỐC CÁC DÂN TỘC NĂM MÀU DA ANH EM CÒN SỐNG SÓT Ở TIỂU KIẾP THỨ 9

 

Gần cuối tiểu kiếp thứ 8. Tứ Đại Đất - Nước - Gió - Lửa. Thái chuyển hoành hành dữ dội. Nên con người khó mà sống sót. Còn lại không còn bao nhiêu. Mở màn người nguyên thủy ra đời. Sang qua tiểu kiếp thứ 9. Càng gần cuối tiểu kiếp thứ 8. Thời cơn bão bình thường cũng lên tới 200 cây số giờ cuối tiểu kiếp lên tới 300 cây số giờ. Còn cơn bão mạnh lên tới 500 - 600 cây số giờ. Nước dân ngập hầu hết các lục địa Đồng Bằng. Cuối tiểu kiếp các dãy núi thấp cũng ngập luôn, nhấn chìm hết thảy nền văn minh vật chất cuối tiểu kiếp thứ 8. Nhiệt độ trung bình trên 60 độ C, có lúc tăng lên 100 độ C, nhất là mùa nắng nóng, ngược lại đến mùa băng giá, có lúc âm xuống 100 độ. Động đất liên miên xảy ra các Châu lục quả đất co dãn rất mạnh và cuối cùng là thay đổi lục địa, năm châu bốn biển thay đổi địa hình, nhân loại đi vào nguy.

 

Gần cuối tiểu kiếp thứ 8 mực nước biển dâng cao, nhấn chìm vô số hầu hết các nước trên toàn thế giới, nhân loại phải di cư lần đến những vùng đất cao, bỏ lại sau lưng là bao nhiêu thành thị thôn quê. Đời sống khoa học vật chất hiện đại vì tất cả giờ đây đã ngập chìm trong biển nước. Nền văn minh vật chất kéo dài hơn mười nghìn năm đã kết thúc, hủy hoàn toàn. Nhân loại còn sống sót ở các dãy núi cao khắp mặt địa cầu Đầu tiểu kiếp thứ 9 trở thành người thượng Cổ ở hang ở động ở lỗ, sống chung bày đàn. Trải qua hàng triệu năm, trở thành dân tộc Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai và cho đến cách đây hơn một triệu năm mực nước biển đã cạn lần. Nhân loại đang sanh sống ở các dãy núi cao của nhiều Châu Lục. Trong các dãy núi cao của nhiều Châu Lục chỉ có những dãy núi cao ở khắp Tây Tạng và những dãy núi xa gần giáp ranh với Tây Tạng. Nơi đây dân tộc Hồng Hoang sống đông đúc hơn cả, đủ 5 màu da sắc tộc anh em, còn những dãy núi khác rãi rác khắp địa cầu thời rất ít. Dân Tộc anh em không nhiều như ở đây.

 

Ở tiểu kiếp thứ 9 theo thời gian mực nước biển cạn lần, cạn lần. Núi, đồi, đất đai cũng dần dần lộ ra, hàng năm càng rộng lớn, những trận lụt kinh khiếp theo dòng chảy ra sông ngòi kinh rạch. Nước từ các dãy núi cao Tây Tạng giáp ranh với Tây Tạng chảy xuống các vùng đồi thấp, rồi chảy xuống Đồng Bằng, chảy lần ra biển cả, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương, Bắc Băng Dương. Mực nước biển rút đến đâu, để lại lớp phù sa màu mở đến đó, cọng thêm sông ngòi kinh rạch, mang theo lớp phù sa, là do những trận lụt lớn làm lở núi sụp đồi cuốn theo động vật thực vật, lớp bùn phù sa bồi đắp lấp lần ra biển, lấp lần ao hồ, thành những đồng bằng màu mở bạc ngàn, làm cho cây cối sanh sôi nẩy nở, đâm chồi nảy lộc. Rừng xanh tăm tắp bạc ngàn, hoa thơm trái ngọt thi nhau mà chen mà chúc. Chim muôn vạn thú mặc sức mà xơi, nhân loại anh em thi nhau mà sinh mà sản. Bốn phương tám hướng, Đông Tây Nam Bắc khắp vùng xa gần dưới chân Tây Tạng cổ xưa. Con đàng cháu đống năm màu da anh em từ bốn phương tám hướng ở dãy núi cao Tây Tạng, xuống lần đồi thấp, xuống lần đồng bằng. Theo con suối, con khe từ thượng nguồn của các dòng suối rồi đến thượng nguồn của các dòng sông, xuống lần đồi thấp, xuống lần đồng bằng. Dân Tộc Hồng Hoang đi lần về hướng Tây, Tây Nam, Tây Bắc, hình thành lên các dân tộc gần, Tây Á, Tây Bắc Á, Tây Nam Á. Còn các dân tộc Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc, có thể nói là tiểu kiếp thứ 8, nhất là gần cuối tiểu kiếp thứ 8 nhân loại anh em cũng đã từng ở khắp những Châu này, cả tỷ tỷ dân, nhưng đã bị xóa sổ ở giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ 8. Những người sống sót ở cuối tiểu kiếp thứ 8, trở thành dân tộc Hồng Hoang ở đầu tiểu kiếp thứ 9 và tuần hoàn lặp lại họ đi lần về bốn biển năm Châu nơi mà Tổ Tiên ông bà ở tiểu kiếp thứ 8 của họ đã ở. Và từ đây hình thành lên nhiều thế lực chia nhau làm chủ núi rừng, đồng bằng, sông hồ, kinh rạch. Nhân loại ở tiểu kiếp thứ 9 càng ngày càng đông, thời sự di cư từ nơi này sang nơi khác lan tỏa càng nhanh, rồi trở thành những cuộc xung đột của nhiều thế lực xảy ra tàn khốc, tiêu diệt lẫn nhau.

*********

 

Hết phần 3 chương 3 mời xem tiếp phần 4 chương 3 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh tối cao giải rõ bao điều bí mật vũ trụ. Nhất là sự bí mật về địa long hình chữ S  địa cuộc của nước Việt Nam. Tiền thân Quốc Tổ Hùng Vương, lịch sử Tiên Rồng cũng như nhân loại về Châu Á.

 

 

 

CHƯƠNG  3

 

PHẦN  4

 

NGŨ LUÂN DA VÀNG.

 

Như chúng ta đã biết, Địa Mẫu Âu Cơ sanh ra nhân loại con người, ông bà Tổ Tiên chúng ta. Cách đây 75 triệu 600 trăm nghìn năm, giữa tiểu kiếp thứ 5. Trăm người con, 50 Nam, 50 Nữ. Gồm 5 màu da ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Kim Da Trắng, Mộc Da Chàm, Thủy Da Đen, Hỏa Da Đỏ, Thổ Da Vàng, ngũ hành. (Ngũ Hành, sanh ra Ngũ Luân).

 

Nói tốm lại Địa Mẫu Âu Cơ sanh ra nhân loại Ngũ Hành. Còn nhân loại Ngũ Hành, sanh ra con cháu Ngũ Luân, ứng hiệp theo Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

 

Đây nói về dân tộc Hồng Hoang bàn cổ sơ khai, kéo dài hàng triệu triệu năm. Dân tộc Da Vàng ở tiểu kiếp thứ 9, Hầu hết là con cháu Hồng Đế, luân chuyển sanh ra 5 màu da Vàng Trắng, Vàng Chàm, Vàng Đen, Vàng Đỏ, còn Vàng Hồng đó là chính da. Vì ứng dụng theo Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ nên anh em da Vàng có hai lối sống khác nhau, kẻ thích sống ở trên cao gọi là Thượng, người thích sống ở đồng bằng ao hồ sông rạch gọi là Kinh. Kinh, Thượng qua lại chung sống với nhau vì anh em một nhà. Con cháu Hồng Đế trải qua hàng triệu triệu năm. Từ các thượng nguồn con suối, thượng nguồn con sông, xuống lần dưới thấp theo hai hướng, theo các dòng sông và theo các sườn đồi. Phần lớn anh em da Vàng, Kinh, Thượng đi theo hướng mặt trời mọc, rồi tẻ ra Nam, Bắc. Và cho tới cách đây hàng chục nghìn năm anh em Da Vàng theo các con sông xuống Đồng Bằng, trong đó phải kể ba nguồn sông lớn là, Sông Mê Công, Sông Trường Giang, Sông Hoàng Hà. Anh em Da Vàng xuống đồng bằng rồi tiến lần về biển, phần lớn là tiến lần về Thái Bình Dương, phần lớn tiến về hướng Đông Đông Nam ra biển Thái Bình Dương, gần giáp ranh với ẤN ĐỘ DƯƠNG. Hình thành lên hai dân tộc anh em, Đông Nam Á và Bắc Đông Á, lấy Bắc sông Trường Giang làm chuẩn Bắc, Nam. Và cho đến cách đây 7 nghìn năm, lúc bấy giờ nền văn minh Đông Nam Á trên đà phát triển. Dân Tộc Kinh cũng như Dân Tộc Thượng anh em, sống dọc theo thượng Nguồn sông Mê Công, thượng Nguồn sông Trường Giang. Đột phá tiến lên chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn văn minh Ngũ Cốc, trong đó có nền văn minh lúa nước là độc đáo.

 

Vì sao lại có chuyện như thế? Vì Đông Nam Á khí hậu ôn hòa, bốn mùa tám tiết, nhiệt độ trung bình lên xuống không cao, không thấp. Nên Thực Vật nói nôm na là cây, cỏ, củ rất phong phú, những giống quí hiếm sanh sôi cùng khắp, nhất là về Ngũ Cốc và các giống cỏ, lúa đuôi phụng, đuôi công. Nhưng phát hiện ra Ngũ Cốc cũng như các giống cỏ lúa, liên quan mật thiết đối với con người không phải dễ, tuy biết rằng chúng ở ngay trước mặt chúng ta. Để khám phá ra chúng, xử dụng chúng, đưa đời sống con người lên cao. Đương nhiên phải có nhân tài xuất chúng ra đời, tốm thâu Ngũ Cốc hoang dại, cỏ lúa hoang dại. Lai tạo chúng, nhân giống chúng thành thuần chủng, nâng cao đời sống con người. Đó là ai chúng ta tìm hiểu những đoạn Kinh ở sau.

 

Còn Đông Bắc Á nhiệt độ lên cao xuống thấp quá lớn. Mùa nóng thời nóng khô hạn. Mùa mưa thời bão tuyết phủ xuống ngập tràng, tương sanh thời nhỏ, tương khắc thời quá lớn không phù hợp cho thực vật nẫy sinh phong phú. Nhất là những giống quí hiếm ít sanh sôi nẫy nở như Ngũ Cốc hoang dại, cũng như cỏ lúa đuôi Công, đuôi Phụng, nên nhà Bác Học vũ trụ không đầu thai xuống Đông Bắc Á mà chỉ đầu thai xuống Đông Nam Á cách đây khoảng 7 nghìn năm.

 

Nhà Bác Học nông nghiệp Thiên Tài vũ trụ đó là ai? Chính là Đức VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG ra đời, mở màng cho nền văn minh Ngũ Cốc. Trong đó nền văn minh Lúa nước là độc đáo hơn cả. VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG tìm tòa Ngũ Cốc hoang dại, năng xuất thấp, đem về lai tạo nhân giống chúng thành giống thuần chủng năng xuất cao. Đưa đời sống nhân loại nhảy vọt lên một bước cao, đánh dấu sự hưng thịnh của Đông Nam Á.

 

Kế đến là các nhà Bác Học vũ trụ xuống trần ra đời, trong niên đại Viêm Đế Thần Nông, như nền văn minh hội họa, hình tượng, gạch tượng, động tượng và biểu tượng. (Xem Kinh Văn Lang Chiến Sự sẽ rõ).

 

Thay cho lời nói, mở ra trang sử mới trong giao tiếp, văn minh tinh thần, vật chất lần lần xuất hiện. Sau thời đại Viêm Đế Thần Nông là thời đại KINH DƯƠNG VƯƠNG. Sau thời đại Kinh Dương Vương là thời đại HÙNG VƯƠNG. Sau thời đại Hùng Vương là thời đại ÂU LẠC.

*********

 

Hết phần 4 chương 3 mời xem tiếp phần 5 chương 3 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh nói rõ về Cội Nguồn của dân tộc Văn Lang nay là dân tộc Việt Nam. Kéo dài hàng triệu triệu năm không phải chỉ có năm nghìn năm Văn Hiến, mà hàng triệu năm Văn Hiến. Năm nghìn năm Văn Hiến là nói từ thời Quốc Tổ Vua Hùng khai dựng nước Văn Lang đến bây giờ. Một dân tộc có truyền thống lâu đời nhất thế giới như vậy. Mới có cơ sở làm tỏ rạng năm màu da anh em khắp cùng trái đất.

 

 

 

CHƯƠNG  3

 

PHẦN  5

 

PHẦN TỐM LƯỢC.

 

1: Lịch sử: Quốc Tổ Hùng Vương, khai dựng nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn dựng lên nước Văn Lang. Quá trình tiến hóa của xã hội nay là nước Việt Nam.

 

2: Đức Quốc Tổ Hùng Vương chính là Đức Giáo Tổ, Chí Tôn Thiên Đế con cả của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, đầu thai xuống trần làm con Kinh Dương Vương.

 

3: Đức Quốc Tổ Hùng Vương chứng quả vô thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thuyết ra Văn Hóa Cội Nguồn, hàng phục trăm bộ lạc, lập lên nước Văn Lang rộng lớn.

 

4: Do chính sách trị dân bằng Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Chính Nghĩa, đất nước Văn Lang Độc Lập kéo dài, thời dựng nước 79 năm thời giữ nước 2622 năm, cọng chung là 2701 năm.

 

5: Vì do truyền khẩu quá lâu dài hàng nghìn năm, Văn Hóa Cội Nguồn càng về sau càng mất gốc, mất dần Tinh Hoa ý chính, trở thành truyền thuyết không đầu, không đuôi, không thứ lớp, thiếu thực tế.

 

6: Cũng vì mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Con Cháu Tiên Rồng rơi vào hố thẳm, bóng đêm trùm xuống, chiến tranh loạn lạc, nồi da nấu thịt, nô lệ truyền miên.

 

7: Sống theo kế sách bạo lực, thắng là Vua, thua là giặc. Đi ngược lại Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang.

 

8: Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp Đại Đồng, Bình Đẳng là cán cân công lý xã hội, là Chí Tôn vô thượng. Bảo vệ Quyền Tự Do, Quyền Độc Lập. Quyền Tự Chủ, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân, của mỗi dân tộc, không một ai có quyền xâm phạm.

 

9: Là tôn trọng lẩn nhau, sống đúng Hiến Pháp và làm đúng Luật Pháp, hai bên cùng có lợi, cả hai mặt, tinh thần lẩn vật chất.

 

10: Ra sức bảo vệ Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Ra sức Cống Hiến sức lực tài năng, trí huệ, của cải vật chất. Xây dựng, gìn giữ mỗi ngày một lớn mạnh, gánh vác mọi khó khăn, làm cho nền Quốc Đạo ngày một sáng tỏ phát Đại Dương Quang, đưa con cháu Tiên Rồng nói riêng, nhân loại thế giới nói chung đến cảnh Cực Lạc Hạnh Phúc.

*********

 

Hết phần 5 chương 3 mời xem tiếp phần 1 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, bộ kinh nói rõ về Cội Nguồn của dân tộc Văn Lang nay là dân tộc Việt Nam. Long Hoa Mật Tạng là bộ kinh Quốc Bảo làm sống dậy khí thiêng sông núi, sống dậy Hồn Thiêng Dân Tộc. Đưa dân tộc Việt Nam tỏa sáng khắp năm châu bốn biển. Gươm thiên trấn quốc độc lập tự do thái bình an lạc muôn năm. Mùa xuân mãi mãi nở trong lòng người, xuân giàu sang, xuân hạnh phúc trên khắp đất nước quê hương.




CHƯƠNG  4

 

PHẦN 1

 

NGUỒN GỐC TIỀN THÂN QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG

 

Đức Quốc Tổ Hùng Vương chính là Đức Giáo Tổ, Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần, là một trong trăm người con của Địa Mẫu ÂU CƠ và LẠC LONG QUÂN. 100 người con của Đức Cha Trời LẠC LONG QUÂN và Địa Mẫu ÂU CƠ, sanh ra tại dãy núi Long Hoa, chốn Hồng Trần, cách đây 75 triệu 600 nghìn năm, giữa tiểu kiếp thứ 5. Một trăm người con của Đức Cha Trời LẠC LONG QUÂN và Địa Mẫu ÂU CƠ hiện đang làm Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, Mẫu Hoàng, Phật Mẫu, Tiên Mẫu, Thánh Mẫu cai quản khắp tần trời, Tam Thiên Đại Thiên vũ trụ. Đức Giáo Tổ Chí Tôn là anh cả, theo di chí Tổ Tiên, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời.

 

Cho đến cách đây hơn năm nghìn năm, nơi tần Trời thứ 11 trung Thiên Giới, nơi tần Trời Thiên Vân, cõi Long Vân, Đức Giáo Tổ Chí Tôn ra khỏi Thiên Cung nhìn về chốn trần gian, trong lòng bổng nhiên hồi hộp, một chuyện lạ chưa từng có, không hiểu chuyện gì sắp xảy ra. Thời thấy vũ trụ bổng nhiên tối đen như mực, cuồng phong nỗi dậy ù ù, tiếng gào thét kêu la thật thảm thiết. Đức Chí Tôn suy nghỉ, đây là cuồng phong chốn nhân gian, tiếng gào thét kêu la từ Địa Ngục sao lại bay lên tới tận trung Thiên nơi này hay là Đức Cha Trời có điều chi dạy bảo, đang suy nghỉ, thời thấy Chư Thiên nhiều vô số vô biên lâm phàm, bị vô minh vây phủ, không trở về Trời được nữa, không biết bao nhiêu là Chư Thiên rơi luôn xuống Địa Ngục âm phủ thống khổ vô cùng.

 

Đức Chí Tôn thở dài, bổng chốn hư không Ba Đạo hào quang, kéo theo hàng loạt tiếng sấm lớn, tức thời màn đêm từ từ biến mất. Vũ trụ giờ đây đã trở lại yên bình, hiện ra vô số hoa sen báu, sau đó thời biến mất.

 

Biết Đức Cha Trời có điều muốn dạy, Đức Chí Tôn liền chấp tay vái lạy chốn hư không khấn rằng:

   Thưa Đức Cha Trời, hiện tượng vừa hiện ra nơi vũ trụ, con đây chẳng rõ, vừa mừng vừa lo. Xin Đức Cha Trời dạy bảo cho con hiểu.

 

Lời khấn vái của Đức Chí Tôn xong, thời nơi chốn hư không phát ra tiếng nói:

   Này A DI ĐA con là anh cả trong 100 người con của ta, nay ta giao cho con việc lớn. Tiểu kiếp thứ 9 sắp kết thúc, chuyển sang tiểu kiếp thứ 10. Con đem Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ truyền xuống chốn nhân gian, mở đường đưa nhân loại về Trời. Qua khỏi sông mê đến bờ giác, mùa gặt hái linh hồn đã đến. Nhân loại tu luyện tiến hóa Linh Hồn đã trải qua 16 triệu 800 nghìn năm, thời kỳ trình độ dân trí tiến hóa lần đến chổ chí cao. Nhân loại cần có đường để về Trời, tiến lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Còn những Linh Hồn châm tiến sẽ ở lại chốn nhân gian, tiếp tục đầu thai chuyển qua tiểu kiếp thứ 10, tiếp tục tu luyện chờ mùa gặt sau. Nơi chốn Hồng Trần dãy núi Long Hoa, sau một thời gian sụp lở đã thấp xuống, gãy khúc lổm chổm tạo ra núi non trùng điệp. Nay mực nước biển đã xuống thấp, Địa Long đã lộ ra, dọc theo bờ biển từ Nam cho tới Bắc. Con hãy đầu thai xuống chốn nhân gian, sanh vào dòng dõi KINH DƯƠNG VƯƠNG, lớn lên dùng gươm trí huệ, hàng phục ma quân, đại quỷ yêu quái, hàng phục Thần Giáo lập lên Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ, Đất Nước Văn Lang. Đóng đô ở Đầu Địa Long hình chữ S. Con phải đầu thai ba lần con mới làm xong sứ mệnh.

 

   Lần thứ nhất: Con đem Thiên Ấn Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ xuống nhân gian, lập lên Nền Quốc Đạo Tiên Rồng. ẤN TRUYỀN xuống con cháu thay nhau gìn giữ. Nhưng không bao lâu thời Thiên Ấn thất truyền, con cháu Tiên Rồng nhân loại con người phàm trở lại rơi vào cảnh tối tăm. Cho nên con phải đầu thai lần thứ 2.

 

   Lần thứ hai: Không phải đầu thai làm con Quốc Vương trở thành Thái Tử Điện Hạ, quyền thế uy nghi mà đầu thai vào gia đình trung nông bình thường, mồ côi mồ cút, sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc, thiếu ăn thiếu mặc, lang thang khắp chốn, rồi trở thành cư sỉ ẩn dật, chịu nhiều khảo đảo của ác Ma và ác Quỉ, gian truân khốn khổ trăm bề suốt 30 năm. Lúc này nhân loại trên đà văn minh vật chất cao, đã chế tạo ra giấy bút mực tinh xảo, đầy đủ nhân duyên cho con để lại cả ẤN lẫn BÚT. Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ lại tiếp tục ra đời, Long Hoa Hội tiếp tục khai mở. Kinh luân lưu truyền đến tiểu kiếp thứ 15 thời mãn. Thời Long Hoa kéo dài 84 triệu năm, chuyển sang giai đoạn Liên Hoa Hải Tạng.

 

   Lần thứ ba: Con đầu thai xuống chốn nhân gian, giữa tiểu kiếp thứ 10, làm Chuyển Luân Thánh Vương, xuất gia tu hành, làm tổng trì cho Tổ Tiên Khai hóa, thay Cha Trời, Địa Mẫu chuyển Đại Pháp Luân. Thị hiện Bản Thể, Bất Cấu, Bất Tịnh, Bất Tăng, Bất Giảm, trong sạch, bản thể Đại Đồng, Tánh Đại Đồng, Tướng Đại Đồng, Trí Đại Đồng, quá khứ vị lai cũng chỉ là một. Thọ ký cõi nước trang nghiêm cho những người có công lớn trong Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Đạo vũ trụ.

 

Đức Cha Trời truyền dạy xong, nơi không trung bổng nhiên ba Đạo Hào Quang hiện ra chiếu xuống đầu Đức Chí Tôn, tức thời nhục kế trên đỉnh đầu Đức Chí Tôn liền trong suốt hóa thành gươm Thiên vũ trụ. Trí Huệ của Đức Cha Trời, thần thông trí huệ quảng Đại Vô Biên.

 

Tiếp nhận xong lời truyền dạy của Đức Cha Trời. Đức Chí Tôn trở về Thiên Cung Đại Điện, ngồi xếp bằng phóng ba Đạo Hào Quang xuyên suốt không gian vũ trụ. Hiệu triệu các vị Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, Lão Lão Tổ, Vương Mẫu, Thánh Mẫu, Mẫu Hoàng, Phật Mẫu đang cai quảng khắp các tần trời, khắp cùng Tam Thiên, Đại Thiên vũ trụ.

 

Nói về 6 phương trời là: Đông Phương, Tây Phương, Nam Phương, Bắc Phương, Thượng Phương, Hạ Phương. Mỗi phương lại có thập phương, vô số, vô biên, cõi nước Chúa, cõi nước Thánh, cõi nước Phật. Nhận được lời hiệu triệu của Đức Chí Tôn, liền đằng vân giá vũ tức tốc lên đường đến trung ương Thiên Giới để họp. Từ 6 phương thập hướng, từng cụm mây vàng, mây xanh, mây đỏ, mây trắng, trùng trùng điệp điệp lớp lớp vô tận vô biên, nhắm hướng cõi Long Vân bay đến.

 

Đức Chí Tôn thấy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, đến dự Hội Long Vân đông đủ, các ngài là các bật Tôn Sư, Giáo Tổ, Phật Tổ, Vương Mẫu, Thánh Mẫu, Mẫu Hoàng, Phật Mẫu cùng các Thượng Đế, Vương Đế, Vua, Chúa vô lượng cõi Trời, đến hội hộp đông đủ. Tức thời Kim Đồng Ngọc Nữ bay lên không trung xông hương trổi nhạc, ca hát ngợi khen tán thán, cúng dường xong đâu vào đấy.

 

Đức Chí Tôn mới chấp tay hướng về Đại Hội thưa rằng:

   Theo thường lệ cứ 5 năm là Đại Hội Long Vân một lần, nhưng hôm nay lại sớm hơn 1 năm là vì Đức Cha Trời có lệnh, dạy bảo chúng ta có điều cần làm. Các anh em khắp vũ trụ có nghe thấy lời dạy của Đức Cha Trời không?

 

Đại Hội thưa rằng:

   Bạch Đức Chí Tôn anh em chúng tôi đều nghe thấy rõ cả, nên đã chuẩn bị tinh thần, chờ Đức Chí Tôn hiệu triệu là lên đường ngay.

 

Đức Chí Tôn nói:

   Anh em chúng ta là dòng dõi Tiên Rồng, con cái nhà Trời, từ khi Cha Trời, Mẹ Trời hiện thân sanh ra chúng ta, rồi trở về với Tạo Hóa, trở về ngôi vị Khai Hóa Tổ Tiên, đấng lập lên tất cả vũ trụ, vạn vật và con người. Cha Trời, Mẹ Trời trở về với Tạo Hóa chuyển xây bộ máy huyền Cơ vũ trụ và đã giao cho anh em, con cháu chúng ta làm chủ vũ trụ.

 

NHƯ CHÚNG TA ĐÃ BIẾT :

   Vũ trụ chúng ta đang cai quảng không phải là vũ trụ đầu tiên, mà là vũ trụ anh em ta cai quảng đã có vô lượng vô biên vũ trụ hủy diệt rồi.

 

   Các thế giới đàng anh của chúng ta, sau khi vũ trụ hủy diệt, thời Linh Hồn các ngài đã nhập vào bản thể Cội Nguồn vũ trụ rồi. Từ bọt nước, Tiểu Linh Hồn nhập vào bản thể Nước, Đại Linh Hồn vũ trụ, bọt nước trở lại là nước. Tiểu Linh Hồn trở thành Đại Linh Hồn. Anh em chúng ta đang làm chủ sống trong vũ trụ mới, kế tiếp vũ trụ đã hủy diệt cách đây hàng tỷ năm. Chúng ta đang sống trong vũ trụ của chúng ta, chúng ta phải biết gìn giữ và phải có bổn phận dìu dắt hướng dẫn và giúp đỡ cho thế hệ sau tiến lên giải thoát đau khổ, giải thoát sanh tử  như các vũ trụ trước. Anh em chúng ta phải theo lời Cha Trời dạy bảo, tùy sự giác ngộ của mỗi người mà phát Đại Nguyện tận độ lớp lớp thế hệ sau. Trải qua hàng triệu năm, dưới sự cai quản của anh em chúng ta, Thiên Giới vẫn bình yên trong Bình Đẳng tự do, An Lạc hạnh phúc.

 

   Chốn nhân gian tuy là cõi phàm tục nhưng lại là nơi sanh ra anh em chúng ta. Cứ mỗi tiểu kiếp là một chu kỳ lớp học vũ trụ, từ các loài Cầm Thú, Bò Sát đầu thai làm người, rồi từ người Linh Hồn tiếp tục tu luyện, tiến hóa lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Rồi tùy theo công hạnh, lập công trong Văn Hóa Cội Nguồn. Theo Thiên Luật luân chuyển mà làm Đế làm Vương, làm Vua, làm Chúa các tần trời, Tam Thiên, Đại Thiên thế giới khắp cùng vũ trụ.

 

   Nơi chốn nhân gian đang ở giai đoạn gần cuối tiểu kiếp thứ 9, giai đoạn vô cùng khẩn cấp, vô cùng quan trọng, giai đoạn gặt hái Linh Hồn, giai đoạn mãn chu kỳ lớp học tiến hóa Linh Hồn của một tiểu kiếp.

 

   Nhưng cũng là giai đoạn đầy nguy hiểm đối với anh em chúng ta, đầu thai xuống chốn nhân gian. Hầu hết nhân loại ở vào thời kỳ này nhục thể ô trược nặng nề, khi đầu thai vào bụng Mẹ, thời coi như Linh Căn tối tăm mù mịt, quên hết kiếp trước của mình. Sanh ra gặp phải thời thế bất công, chiến tranh loạn lạc, đói nghèo áp bức, tranh giành đua chen, ganh ghét hận thù, nhất là danh lợi cám dỗ. Bát phong xây chuyển, Ngũ Quỉ khảo tra, tai nạn dập dồn khổ thôi là khổ. Lục trần bẩn đục, lục căn bệnh tật điên đảo, lục thức bị vô minh che khuất không rõ giả chân chạy theo bám niếu. Nhân loại ác tánh phủ khắp xã hội Địa Cầu, bẫy Quỉ, bẫy Ma, bẫy Gian, bẫy Xão giăng khắp hang cùng ngõ hẻm.

Dòng phiền não tuông nhau chảy xiết

Bả lợi danh cuốn hút liên miên

Có mấy ai đi ngược trở lên

Mà không bị chúng lôi chúng niếu.

 

   Đừng nói chi đến tu hành đắc ngộ. Chỉ cần làm một việc lành cho vững thời cũng đã thấy khó lắm rồi, nói chi đến mở đường khai Lộ cho Thiên Hạ đi theo, mà đó lại là con đường về Trời, thời khó biết là bao nhiêu. Chưa nói đến cảnh bệnh tật, nghèo đói lạc hậu, cảnh anh em, chồng vợ, cha con, họ hàng, thân tộc, người này khổ lôi kéo người kia, người kia khổ lôi kéo người nọ, tâm hồn yên tỉnh được đâu, cứ mãi vùi đầu trong vòng xoáy sanh lão bệnh tử, hận thù triền miên, tham si chẳng dứt, tự mình chẳng cứu được mình, lặng hụp trong biển khổ, còn cứu được ai nữa. Khó biết bao là khó, nguy hiểm biết bao khi sanh xuống chốn nhân gian.

 

   Vì Đại Nguyện, vì Cha Trời đã dạy. Anh em chúng ta lần lượt xuống trần, lấp cửa Địa Ngục mở lối Thiên Đàng. Nếu chậm trể, thời nhân loại nhân gian tự hủy diệt nhau, rơi vào ác Đạo, Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh, không sao tránh khỏi, uổng công 16 triệu 800 nghìn năm luân hồi tu luyện.

 

   Gần cuối tiểu kiếp thứ 9, trình độ khoa học vật chất dân trí đã lên cao, văn minh vật chất đang tiến lên đà cực thịnh, chế tạo vũ khí giết nhau hàng loạt. Nếu không có Văn Hóa Cội Nguồn, Thiên Đạo vũ trụ giải mã bí mật vũ trụ, duy trì Chính Nghĩa Đại Đồng. Thời họa diệt vong sẽ không sao tránh khỏi, thảm khốc vô cùng, Địa Ngục nới rộng, luân hồi chuyển kiếp súc sanh, đầu thai trở lại Thú Cầm, Ngạ Quỉ súc sanh.

 

Nói xong Đức Chí Tôn toàn thân phóng ra vô lượng Hào Quang: Hào Quang Trì Giới, Hào Quang Thiền Định, Hào Quang Đại Định, Hào Quang Chuyển Luân, Hào Quang Trí Huệ Bát Nhã, Hào Quang Đại Hùng Đại Lực, Hào Quang Đại Từ Đại Bi, Hào Quang Đạ Hỹ Đại Xả, Hào Quang Phương Tiện, Hào Quang Đại Phương Tiện, Hào Quang Nhẩn Nhục - Nhẩn Nhịn - Nhẩn Nại, Hào Quang Đại Tinh Tấn, Hào Quang Đại Nguyện.

 

Đức Chí Tôn phóng ra vô lượng Hào Quang: Hào Quang Đại Đồng, Hào Quang Bình Đẳng, Hào Quang Tự Do, Hào Quang Cực Lạc vô lượng vô biên tạng tánh Công Đức, thù thắng trang nghiêm.

 

Hiện ra tiếng sấm lớn làm chấn động vũ trụ. Tuyên thuyết rằng ta sẽ đầu thai xuống trần mở màn sớm nhất, tức thời 3 cõi Thiên Đàng, Trần Gian, Địa Ngục bổng sáng rở lên. Tam Thiên, Đại Thiên thế giới, Chư Thiên mừng rỡ, Chí Tôn sắp lâm phàm cứu thế, tức thời đàn ca sáo thổi, ca hát nhảy múa tán thán Công Đức. Nhiệm mầu thay, lời ca tiếng hát, đàn sáo nhảy múa ấy theo Hào Quang của Đức Chí Tôn luân chuyển cùng khắp vũ trụ, thật là hi hữu chưa từng thấy bao giờ.

 

Sau Đức Chí Tôn là các vì Phật Tổ phóng vô lượng Quang, vô lượng Quang thanh tịnh, hiện ra vô lượng vô biên hoa sen báu, mỗi tòa sen báu đều có Phật Tổ an ngự, từ vô lượng vô biên tòa sen báu đồng cùng lúc phóng ra vô lượng vô biên Hào Quang: Hào Quang giải thoát, giải thoát phiền não, giải thoát Tri Kiến, giải thoát Địa Ngục, giải thoát Ngạ Quỉ, giải thoát súc sanh, giải thoát luân hồi sanh tử. Hào Quang cứu khổ cứu nạn, Hào Quang tạng tánh Công Đức, Hào Quang Đại Từ Đại Bi, Đại Hỹ, Đại Xả. Vô lượng vô biên Phật Tổ phóng ra vô lượng Hào Quang, Nhơn Chú, Phật Chú, Thánh Chú, Thần Chú làm lợi ích cho toàn nhân loại vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Hào Quang vô ngại trí huệ, Hào Quang nhất thiết chủng trí, Hào Quang Chánh Đẳng, Chánh Giác, cho đến vô lượng Quang, Đà La Ni Tạng Tánh Công Đức thanh tịnh vũ trụ, hi hửu chưa từng thấy bao giờ.

 

Sau Phật Tổ là các vì Thánh Tổ phóng ra vô lượng Quang. Hiện rõ:

Luật Tạng vũ trụ. Hiện rõ Thiên Tạng vũ trụ. Hiện rõ Pháp Tạng vũ trụ. Phật, Thánh, Thần, Tiên, Chúa đều Bình Đẳng. Hào Quang công lý vũ trụ. Hào Quang Nhân Quả vũ trụ. Hào Quang Phước Báo. Hào Quang Ác Báo. Hào Quang Trọng Tài. Hào Quang Công Tố. Hào Quang Hành Pháp. Hào Quang Phân Xử. Hào Quang Thế Thiên Hành Đạo. Vô lượng Thánh Tổ, đồng phóng vô lượng Hào Quang. Hiện rõ khắp Tam Thiên, Đại Thiên, Thế Giới, Trần Gian, Địa Ngục. Vô lượng vô biên vị Thánh phán xét phân xử Công Minh theo Thiên Luật, Nhơn Luật vũ trụ. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, phàm nhân, Quỉ, Ma hể phạm tội liền bị luân chuyển nhận lảnh quả báo như nhau. Thiên Luật vũ trụ không thiên vị một ai. Cán cân công lý vũ trụ mãi mãi ứng dụng theo Luật Đại Đồng Bình Đẳng. Không thay đổi, hi hửu chưa từng thấy bao giờ.

 

Sau Thánh Tổ là các vị Tiên Chúa phóng ra vô lượng Quang. Hào Quang hình thành lực vũ trụ. Hào Quang hình thành khí vũ trụ. Hào Quang hình thành nước vũ trụ. Hào Quang hình thành lớp bụi vũ trụ càng lúc càng nhiều. Bổng nổi lên một trận phong Luân dữ dội, sấm chớp lửa đỏ dậy trời, rồi phân ra làm 9 phong Luân vũ trụ. Chia làm ba phần, Thượng Luân, Trung Luân, Hạ Luân. Từ một phong Luân tách ra hàng nghìn hàng vạn phong Luân nhỏ. Rồi từ hàng vạn phong Luân tách ra hàng triệu phong Luân. Lớp bụi vũ trụ bị phong Luân cuốn hút theo xoáy tròn. Lực ép khí, khí ép nước, nước ép lại bụi vũ trụ đã tạo ra sau cùng thành vô lượng, vô biên cõi nước Trời. Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, Thiên Hà, Ngân Hà trần gian âm phủ, ba cõi Thiên Đàng trần gian âm phủ. Vô lượng Chúa Tiên lại phóng ra vô lượng Hào Quang hiện rõ quá khứ, từ vũ trụ Vô Cực hiện ra vũ trụ Thái Cực, từ Thái Cực vũ trụ phân ra lưởng nghi rồi hình thành Âm Dương vũ trụ. ÂM DƯƠNG giao hóa chuyển động theo phong luân, sanh ra ngũ hành, để rõ hơn ÂM DƯƠNG phân ra tứ tượng, tứ tượng âm dương giao hóa với nhau, chuyển động theo phong Luân hình thành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ luân chuyển phân hóa sanh ra thập nhị địa chi. Lục Luân Chuyển Hóa, Ngũ Địa Luân Hoàng, Bát Quái giao tranh, Hào Quẻ sanh ra có lang có lớp, tương sanh tương khắc, sanh trụ dị diệt, thành trụ loại không. Từ một đầu lông cho đến vũ trụ có sanh có tử, đều theo Luật tuần hoàn, không rồi lại có, có rồi lại không. Văn minh khoa học, tinh thông vật chất, nhờ hiểu rõ cơ lý đa năng bộ máy tiến hóa đa dạng vũ trụ, kết tập kinh nghiệm, hình thành nền văn minh Thiên Địa, Địa Tiên lập lên thế giới Thiên Đàng Cực Lạc, truyền xuống phàm trần làm lợi ích cho toàn nhân loại, thật là hi hửu chưa từng thấy bao giờ.

 

Sau Tiên Chúa là các Thần Tổ vô lượng vô biên, đồng phóng Quang hộ pháp, vang ra tiếng sấm lớn chấn động vũ trụ, làm cho tà giáo, ác Ma, ác Quỉ khiếp đảm, Đại Hội bất thường Long Vân kết thúc. Tam giáo Quy nguyên, Ngũ Chi hợp nhất trở về chổ cũ, ở nước nào về nước nấy, tùy theo cơ duyên mà hành sự. Thế là Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ mở màn xuống trần sớm nhất rồi đến Phật Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Thần Đạo, lập công với Tổ Tiên, Trời Đất trong Văn Hóa Cội Nguồn.

*********

 

Hết phần 1 chương 4 mời xem tiếp phần 2 chương 4 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh tối cao không thể nghĩ bàn. Chỉ cần xem qua một phần thành tâm khen ngợi, thời bao kiếp nạn cũng tai qua nạn khỏi, huống chi là đọc hết một chương, hay trọn bộ kinh Long Hoa Mật Tạng. Thời những người nầy muôn vạn kiếp sau trở thành những lãnh tụ thiên tài. Uy danh lừng lẫy. Binh pháp siêu đẳng khó người hơn được. Nếu phát tâm ấn in truyền bá cho đời, thời những người nầy nhất định trở thành những vị chuyển luân vương ở khắp cõi trời, giáo hóa vô lượng cõi nước. Được Thiên Chúng ca ngợi tôn thờ.

Long Hoa Mật Tạng Đại phúc kinh

Thành tâm lễ bái cầu hiển linh

Phước đến hoa tiêu trong nháy mắt

Huống chi đọc tụng Quỉ, Yêu kinh.

 

 

 

CHƯƠNG 4

 

PHẦN 2

 

NGUỒN GỐC DÂN TỘC ĐÔNG NAM Á

 

Tiểu kiếp thứ 8 kết thúc, nhân loại còn sống sót, chuyển qua tiểu kiếp thứ 9, trở thành người nguyên thủy, rồi từ người nguyên thủy trải qua hàng triệu năm, trở thành dân tộc Hồng Hoang, Bàng Cổ sơ khai, từ dân tộc Hồng Hoang, Bàng Cổ sơ khai, trải qua hàng triệu năm, trở thành dân tộc Hồng Bàng, đứng đầu Hồng Bàng là Hồng Đế. (Niên Hiệu Hồng Đế ra đời). Rồi từ Niên Hiệu Hồng Đế, trải qua hàng trăm nghìn năm, thời chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG.

 

Nói về giai đoạn Niên Hiệu Hồng Đế trải qua hàng trăm nghìn năm, đến đời Hồng Đế cuối cùng. Hồng Đế Hậu Nương hạ sanh Quí Tử khôi ngô tuấn tú, thông minh tài trí khác phàm, đặc tên là HỒNG VIÊM. Vì sao lại là tên Hồng Viêm, vì lúc Đế Nương sắp sanh Quí Tử, liền thấy Thiên Thần đến lễ bái nói chúc mừng Đế Nương. VIÊM Đế xuống trần là nhà Bác Học Thần Nông, chủ nhân của Ngũ Cốc, chủ nhân của Lúa, Gạo, nói xong các Thiên Thần liền biến mất. Nên sanh ra Quí Tử, Hồng Đế đặc tên cho con là Hồng Viêm. Hồng Chúa Kinh, Thượng khắp nơi đến chúc mừng.

 

Ở giai đoạn Hồng Bàng, đứng đầu Hồng Bàng là Hồng Đế, dưới Hồng Đế là Hồng Chúa trấn giữ khắp nơi, người kinh lẩn người thượng, kẻ ở cao người ở thấp. Ở giai đoạn Hồng Bàng người Kinh cũng như người Thượng, một phần sống dọc theo hạ lưu thượng nguồn sông Mê Công, một phần người Kinh cũng như người Thượng sống dọc theo hạ lưu thượng nguồn sông Trường Giang.

 

Hạ lưu thượng nguồn sông Mê Công, hạ lưu thượng nguồn Nam sông Trường Giang song song cách nhau không xa. Thượng nguồn hạ lưu của hai con sông này hình thành dân tộc Đông Nam Á.

 

Thời Hồng Đế dân tộc Đông Á chỉ là một thượng nguồn của các con sông lớn như: Mê Công, Trường Giang, Hoàng Hà, đến giai đoạn cuối một hai đời Hồng Đế, dân tộc Đông Nam Á mới tách lần ra làm đôi, Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

 

Đến thời VIÊM ĐẾ thời coi như tách hẳn ra, Đông Nam Á và Đông Bắc Á thời chuyển sang thời Kinh Dương Vương kéo dài hơn 2 nghìn năm, rồi chuyển sang giai đoạn Hùng Vương kéo đài 2701 năm.

 

Đây nói về Hồng Viêm ra đời, càng lớn càng thông minh lạ thường, phát minh sáng kiến ra nhiều điều mới lạ, nhất là về lĩnh vực Ngũ Cốc. Hồng Viêm dẩn theo thuộc hạ, trèo non lặng suối tìm kiếm những giống Ngô, giống Quả, giống Củ hoang dại ở khắp nơi. Nhất là những giống cỏ lúa, đuôi Công, đuôi Phụng, đem về lai tạo thành giống thuần chủng cho năng xuất cao, cho kết quả bất ngờ trúng lớn. Ngô, Quả, Củ đầy rẫy đầy nương. Đặc biệt nhất là từ những cỏ lúa hoang dại, dọc theo hai bên bờ sông, mọc những nơi đầm lầy trên khô dưới nước. Dân Hồng Bàng gọi đó là cỏ phúc nuôi Chim Trời, đủ loại Chim tới đây tìm ăn, nhất là Chim Hồng Lạc loại Chim khôn ngoan hiền lành. Nhờ có tài Lai Tạo, Hồng Viêm lai tạo giống, biến chúng thành giống lúa nước thuần chủng cho năng xuất cao.

 

Từ trước đến nay, dân tộc Hồng Bàng chỉ biết lấy việc săn bắn hái lượm để mà sanh sống, nay thấy Lúa, Ngô, Khoai, Sắn do VIÊM ĐẾ lai tạo mới lạ đạt năng xuất, ăn ngon bổ dưỡng, đẩy lùi đói khổ bệnh tật, đưa đời sống con người nhảy vọt lên một tầm cao. VIÊM ĐẾ danh nỗi như cồn, tiếng tăm lừng lẫy, Công to Đức lớn, được Thiên Hạ suy tôn là Thần nông, vị thần Ngũ Cốc lúa gạo.

 

Khi lên ngôi thay Cha là Hồng Đế trị vì Thiên Hạ. Hồng Viêm đổi niên hiệu. Từ Hồng Đế chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. Truyền được 10 đời, đồng danh hiệu là VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG.

 

Đến đời VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG thứ 10, có cháu Đế Tôn do Đế Nương sanh ra, khôi ngô tuấn tú, dũng mảnh phi thường, mới sanh ra đã biết đi, ba ngày sau thời biết chạy, mau lớn khác thường, đi trên nước cũng như đi trên cạn, sức mạnh quật ngã con Voi lớn lực lảm kinh người, khai phá đất đai mau chóng bằng hàng trăm người, mở mang ruộng đất cho việc trồng ngô, cấy lúa.

 

Đời sống con người từ đó nhảy vọt lên một mức cao nữa, danh nỗi như sấm, Đức cả bay xa nên được Thiên Hạ suy tôn là Đức Sùng Lảm, ý nghĩa của ba chữ Đức Sùng Lảm là. Đức là nói đến công lao khai phá mở rộng ruộng đất, đem lại đời sống no ấm cho con người. Sùng là tôn sùng, kính trọng, kính phục. Lảm là nói đến sức mạnh lực lảm không ai hơn. Hay còn gọi là Đế Tôn Thần Sấm ai nghe đến cũng khiếp sợ.

 

Đức Sùng Lảm khi lên ngôi thay cho Đế Nội, VIÊM ĐẾ đời thứ 10 trị vì Thiên Hạ, liền chuyển đổi Niên Hiệu. Từ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Truyền được 9 đời, đồng danh hiệu là Kinh Dương Vương. Đến đời KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 cầu hôn Thần Long Nữ ở Bộ Tộc Long Giao Đông Giao Chỉ kết duyên thành phu phụ. Khi Thần Long Nữ sắp sanh con, thời Hoa Lan khắp non sông nước Xích Quỷ đều nở rộ hương thơm ngào ngạc, ngày 20 tháng 2 coi như là ngày hội Hoa Lan nên Kinh Dương Vương đời thứ 10 đặc tên cho con là Hùng Lan.

*********

 

Hết phần 2 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 3 chương 4.

 

 

 

CHƯƠNG  4

 

PHẦN 3

 

NGUỒN GỐC NAM KINH XÍCH QUỈ GIAO CHỈ

 

Khi Sùng Lảm lên ngôi thay cho Đế Nội trị vì Thiên Hạ, liền chuyển đổi Niên Hiệu từ VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG chuyển sang giai đoạn Niên Hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG. Kinh Dương Vương không những có tài mở mang về Nông Nghiệp mà còn có tài Bác Học phát minh ra Nền Văn Hóa giao tiếp, Hội Họa và các dấu hiệu ra ni, thành văn pháp thay cho lời nói. Nhờ phát minh ra Nền Văn Hóa giao tiếp, gỡi thông điệp cho qua tấm da thú, đưa con người xích lại gần nhau, hiểu nhau cách xa hàng nghìn dặm, hình thành tính cách ngoại giao với nhiều Bộ Tộc, Bộ Lạc, trao đổi thông tin nhau. Đến đời Kinh Dương Vương thứ 4, Vương Hậu Nương Nương khi sắp sanh Quí Tử liền thấy một con Rồng vàng to lớn đến chào Bà, sau đó không bao lâu chuyển mình sinh ra Quí Tử. Nên KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ tư đặc tên cho con là Long Nhi. Long Nhi lớn mau như thổi thông minh kỳ lạ, học đâu nhớ đó, võ nghệ siêu quần, triệt hạ đàn Sư Tử dể như chơi, phóng lao vài dặm chẳng ai qua, đi dưới nước như trên khô.

 

Ở vào thời kỳ ấy đã có một số ít Bộ Tộc hình thành dọc theo sông Nam Trường Giang, nhưng bị thuồng luồng, sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Hổ Quỉ sát hại. Vì sống không nỗi với bầy lũ Quỉ, trong số các Bộ Tộc sống rãi rác, Bộ Tộc Kinh Hoa là bị lũ Ác Quỉ sát hại nhiều hơn cả, liền gởi thông điệp về cho Kinh Dương Vương với năm bức họa tiết thông điệp như sau.

 

Bức thứ nhất: Họa tiết đất bằng đất đai rộng lớn, thuận lợi cho việc trồng lúa, trồng ngô.

 

Bức thứ hai: Họa tiết nói lên nơi đây có nhiều loài Thủy Quái hung dữ như thuồng luồng Quỉ, cá Sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Rắn Quỉ, Hổ Quỉ chúng theo bám con người tàn sát dữ dội.

 

Bức thứ ba: Họa tiết nói lên các loài Thủy Quái phá hại mùa màng, có phép thuật vô cùng lợi hại như đi gió về mây, gây ra cảnh lụt lội tàn phá cuộc sống của dân.

 

Bức thứ tư: Học tiết Kinh Dương Vương đem quân đánh Quỉ, đuổi chúng đi nơi khác hoặc tiêu diệt chúng.

 

Bức thứ năm: Họa cảnh nói lên sau khi dẹp xong loài Thủy Tộc, Thuồng Luồng Quỉ, Cá Sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Rắn Quỉ, Hổ Quỉ, dựng lên đất nước giàu có, ấm no hạnh phúc.

 

Nói về Long Nhi lớn lên trở thành Long Vương Tử Tài Đức song toàn. Kinh Dương Vương xem xong 5 bức thông điệp do Bộ Tộc Kinh Hoa gởi đến, Kinh Dương Vương xem tới đâu gật đầu tới đó nhưng không có ý kiến gì. Liền đưa 5 bức họa tiết thông điệp cho Long Vương Tử xem, Long Vương Tử xem xong lấy làm mừng rở, bằng xin Cha ban cho ấn lệnh đem quân dẹp loạn yêu Quỉ. Kinh Dương Vương bằng lòng, Long Vương Tử liền phát động đại quân tiến về Đông Hải đến Long Giao, tiến đánh các loài Thủy Tộc yêu tinh ác Quỉ.

 

Long Vương Tử đi đến đâu, các loài Thủy Tộc kinh hồn khiếp vía đến đó, Long Vương Tử chính là Rồng Chúa đầu thai nên các loài yêu Quỉ Thủy Tộc thấy Long Vương Tử đến đâu là kinh khiếp đến đó. Bị Long Vương Tử dùng pháp thuật bắt hết, số nào chống cự lại thời bị giết, số nào bị bắt thời xiềng xích chờ ngày trị tội. Diệt xong các loài Thủy Tộc, Trăn Tinh, Xà Tinh, Hổ Tinh phải mất cả năm, số còn sống sót thời trốn chạy ra biển, ở trên các hải Đảo hoặc trốn chạy qua xứ khác, thu phục một vùng đất đai rộng lớn thuộc phía Nam sông Trường Giang giáp biển.

 

Long Vương Tử từ thượng nguồn Tây Bắc Côn Minh đánh xuống Quý Dương, Trùng Khánh, Quế Lâm, Chu Châu, Liễu Châu, Thiều Quang, Nam Xương, Hàng Châu, Hạ Môn nói chung là hầu hết Lảnh Nam Trung Quốc ngày nay. Dẹp xong loài Thủy Tộc, Thuồng Luồng Quỉ, Cá Sấu Quỉ, Trăn Quỉ, Rắn Quỉ, Hổ Quỉ, sau đó là cho quân binh khai phá đất đai, màu mở trồng ngô cấy lúa, đưa thời đại Kinh Dương Vương tiến lên một bước giàu sang mới.

 

Long Vương Tử lên ngôi thay cha Kinh Dương Vương đời thứ 5 dời Kinh Đô về Giao Chỉ lập lên nước Xích Quỉ. KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 5 là vị vương Thiên Tài, Đức Độ hơn người, chăm lo phát triển Nông Nghiệp, phát triển Nền Văn Hóa giao tiếp, thuận tiện cho việc ngoại giao, trao đổi hàng hóa, dụng cụ, lương thực khắp xa gần lân ban các nước bạn.

 

Khi ấy phía Bắc, Bắc sông Trường Giang, các Vương Đế cũng đã hình thành, nói chung là Dân Tộc Đông Nam Á hay Dân Tộc Đông Bắc Á cũng chỉ là con cháu của Huỳnh Đế, Hồng Đế mà thôi.

 

Ở cuối thời Hồng Đế. Nam sanh VIÊM ĐẾ: thời Bắc sanh PHỤC HI: anh em một nhà. VIÊM ĐẾ: là nhà Bác Học NÔNG NGHIỆP. PHỤC HI: là nhà Bác Học CÔNG NGHIỆP tơ tằm, bông vãi dệt lụa.

 

Khi Nam chuyển sang giai đoạn KINH DƯƠNG VƯƠNG thời Bắc chuyển sang Vương Đế, Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh, Đế Hạ, Đế Vũ v.v… Sự giao thương qua lại, Nam Bắc mỗi ngày một nâng cao nhưng mầm họa chiến tranh cũng từ đó mà phát triển. Do đâu? Do tham lam mà ra cả.

 

Cho đến đời Kinh Dương Vương đời thứ chín, húy hiệu là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc Vương. Sanh ngày mùng 6 tháng 3 năm giáp tý, 3084 trước Công Nguyên. Vương Hậu KINH DƯƠNG đời thứ 8 khi Vương Hậu sắp sinh con, trong lúc mơ màng yên giấc ngủ, liền thấy Thần dân trong nước ở khắp mọi miền đem cúng nạp vô số châu báu trâm bảo quí hiếm, vàng bạc, ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, trầm hương, mật gấu đầy nhà chật kho. Quả thật khi Vương Hậu sanh Quí Tử xong thời dân khắp mọi miền đất nước đem châu báu trâm bảo, sơn hào hải vị hiếm quí dâng lên Vua mừng Thái Tử ra đời, nên Kinh Dương đời thứ 8 đặc tên cho con là Lộc Tục hay còn gọi là Lộc Vương.

 

Lộc Tục càng lớn càng hiền lành nhưng lại nhà Quân sự tài giỏi nhất đương thời, vốn bản chất chân tu không háo sắc nên không có nhiều thê thiếp. Khi lên nối ngôi thay cha cũng đồng danh hiệu KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9, không tuyển thêm thê thiếp gì cả, tuổi đã lớn gần trăm nhưng chưa có con nối dòng làm lo lắng cho các quan.

 

Thấy các quan buồn, Kinh Dương Vương hỏi có việc chi mà các quan các khanh lo lắng rầu rĩ. Quốc Sư Thục Lục thưa, bẩm Quốc Vương nước Xích Quỉ không thể không có người nối dõi, Vương Hậu nay đã lớn tuổi gần trăm khó mà có con được nữa. Quốc Vương nên chọn thứ Hậu để sanh Thái Tử nối dõi ngôi vương. Ở Giao Chỉ có Vương Tộc Long Giao vốn nhà tông, sanh ra út nữ, Tiểu Long Công Nương, nổi tiếng xinh đẹp tuyệt trần, nhân từ khắp vùng, không ai là không ngưỡng mộ. Quốc Vương nên cầu hôn với Tiểu Long Công Nương, Thần Long Nữ về làm thiếp may ra sanh được con Trai. Kinh Dương Vương nghe chí phải, liền cho người đến Bộ Tộc Long Giao ở Đông Giao Chỉ giáp biển, cầu hôn. (Bộ Tộc Long Giao sau này trở thành Dân Tộc Nhật).

*********

 

Hết phần 3 chương 4 mời xem tiếp phần 4 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, Bộ kinh Nguồn Cội tối cao truyền thống anh linh dân tộc Việt Nam. Những gì thất truyền đã hiện rõ. Vần Thái Dương đã trở lại sáng bừng trên non sông đất Việt.

Việt Nam chữ S nở hoa

Việt Nam tỏ rạng bài ca thanh bình

Cội Nguồn truyền thống anh linh

Sáng bừng chân lý hiển vinh đời đời.

 

 

 

CHƯƠNG 4

 

PHẦN 4

 

DÂN SỐ - CHÂU BỘ

CUỐI THỜI KINH DƯƠNG VƯƠNG

 

Nước Xích Quỉ thời dựng nước chỉ có 7 Bộ, 42 Châu nhưng về sau dân số tăng lên, nên tăng thêm hai Bộ nữa thành 9 Bộ, 53 Châu.

1- Giao Chỉ: 92.440 hộ, 746.237 người.

2- Cửu Chân: 15.398 hộ, 78.980 người.

3- Nhật Nam: 15.460 hộ, 69.458 người.

4- Hợp Phố: 16.398 hộ, 78.980 người.

5- Nam Hải: 19.613 hộ, 94.253 người.

6- Uất Lâm: 12.415 hộ, 71.162 người.

7- Thương Ngô: 24.375 hộ, 146.160 người.

8- Ninh Hải: 25.437 hộ, 172.263 người.

9- Vũ Ninh: 21.280 hộ, 136.667 người

 

Phải nói nước Xích Quỷ ở gần cuối thời KINH DƯƠNG VƯƠNG không những rộng lớn mà dân số cũng đông đúc vô cùng. Đây nói đến những Bộ Tộc anh em ở Đồng Bằng, còn những Bộ Tộc anh em ở trên cao sống ở trên cao dân tộc thượng chưa kể đến. Kinh hay Thượng cũng chỉ là danh từ đặc ra để gọi, thật ra Kinh Thượng vốn là anh em một nhà. Kẻ thích ở cao sống dọc theo sường đồi gọi đó là Dân Tộc Thượng. Người thích ở thấp, Đồng Bằng sông Hồ Kinh rạch gọi là Dân Tộc Kinh. Kinh Thượng thường lên xuống lại qua chung sống với nhau.

*********

 

Hết phần 4 chương 4 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 1 chương 5. Phong tục tập quán mỗi dân tộc Bách Việt Văn Lang mỗi khác. Nhưng truyền thống anh linh Bách Việt Văn Lang chỉ có một. Đó là Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Văn Lang. Bách việt Văn Lang đều sống trong một ngôi nhà chung là sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Công Bằng, Bình Đẳng Nền Quốc Đạo Văn Lang.

 

 

 

CHƯƠNG  5

 

PHẦN 1

 

SỰ RA ĐỜI VÌ QUỐC TỔ THIÊN TÀI CÓ MỘT KHÔNG HAI TRONG NHÂN LOẠI CON NGƯỜI

 

Thời kỳ phồn thịnh của nền văn minh lúa nước, văn minh giao tiếp, kéo dài hơn mấy nghìn năm. Từ thời VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG cho đến thời KINH DƯƠNG VƯƠNG với địa thế đất đai rộng lớn màu mỡ, bởi hàng năm phù sa theo các dòng sông bồi đắp, đưa đến dân giàu nước mạnh. Nước Xích Quỉ bao trùm hầu hết Giang Nam Trung Quốc.

 

Chín vị vương KINH DƯƠNG VƯƠNG tiếp nối nhau trị vì Thiên Hạ. KINH DƯƠNG VƯƠNG đời thứ 9 là vị vương nổi tiếng không ham thích tửu sắc, Nhân Đức hiền từ, tuổi đã hơn trăm nhưng chưa có con nối dõi nối dòng làm lo lắng cho các vương quan Đại Thần.

 

Thấy các quan buồn KINH DƯƠNG VƯƠNG hỏi:

   Có việc chi mà các quan các khanh lo lắng rầu rĩ.

 

Quốc Sư Thục Lục thưa:

   Muôn tâu Quốc Vương, Vương Hậu gần hết tuổi sanh con, tuổi trung niên sắp qua, tuổi về già lại đến khó thể sanh con được nữa, Quốc Vương nên thu nạp thứ thiếp may ra có thể sanh con nối ngôi Quốc Vương Bệ Hạ. Muôn dân trăm họ đặng nhờ. Giữ vững cơ nghiệp Tiên Đế Cha Ông. Đông Giao Chỉ có Vương Tộc Giao Long, Vương Chúa có con gái út nữ Tiểu Long Công Chúa, sắc nước hương Trời, nổi tiếng thông minh hiền hậu hiếm thấy trên đời, tuy đã lớn tuổi nhưng Tiểu Long không thích lấy chồng vì cho rằng không ai là người xứng đáng với nàng. Vương Chúa vì thương nên không ép có chồng, tùy Công Chúa Tiểu Long Nữ lựa chọn quyết định.

 

KINH DƯƠNG VƯƠNG nghe Quốc Sư Thục Lục kể về Tiểu Long Nữ tính tình kỳ lạ, mà ngay cả người Cha cũng kỳ lạ như thế, lấy làm kinh ngạc hỏi:

   Có chuyện kỳ lạ đó sao?

 

Thục Lục thưa:

   Bẩm Quốc Vương chuyện Hạ Thần kể đều lạ sự thật. Quốc Vương nên cầu hôn với Tiểu Long Nữ về làm thứ thiếp, may ra có thể sanh con. Nối ngôi Quốc Vương, muôn dân trăm họ đặng nhờ, giữ vững cơ nghiệp Tiên Đế Cha Ông.

 

Kinh Dương Vương nghe phải gật đầu, nhưng nói:

   Để ta suy nghĩ tính sau.

 

Thục Lục làm thinh không dám tâu nữa.

 

Nói về Vương Hậu không có con lấy làm lo lắng, lúc nào cũng khuyên Kinh Dương Vương thu nhập thứ thiếp, để sanh con nối dõi ngôi vương. Kinh Dương Vương ầm ừ qua chuyện, ngày qua tháng lại không đá động gì đến kết nạp thê thiếp, làm lo lắng cho các vương quan Đại Thần, nhất là Vương Hậu.

 

Kinh Dương Vương chỉ thích tu luyện hơn là nạp thê thiếp, Kinh Dương Vương tu luyện đạt đến cảnh giới Địa Tiên, pháp thuật võ nghệ cao cường, đi trên nước như đi trên đất bằng, đi qua con suối, con khe, hố sâu, vực thẳm, núi cao như đi trên thảm cỏ. Không hiểu vì sao hôm nay Kinh Dương Vương lại muốn dạo chơi nơi Hồ Động Đình, danh lam thắng cảnh thời đó, nhất là dịp xuân về, cảnh sắc nơi đây như bồng lai Tiên Cảnh. Kinh Dương Vương quyết định đi một mình nên không cho ai biết, lặng lẽ một người một ngựa âm thầm ra khỏi cung cấm, nhắm mắt hướng Hồ Động Đình vó ngựa lao đi. Kinh Dương Vương tuy đã hơn trăm tuổi nhưng tráng kiện như trai trẻ khôi ngô tuấn tú oai phong lẩm lẩm, nhìn vào chỉ độ 40 tuổi là cùng. Có lẽ Kinh Dương Vương nhờ tu thiền luyện khí nên giữ được bản sắc tướng lâu già, da dẻ hồng hào, trai tráng cũng khó mà hơn được. Cỡi con Huyết Hản Long Câu Thần Mã lao đi vùn vụt, nhìn cảnh non xanh nước biếc, lũy tre đồng ruộng, cây đa, bến đò con nước, người người đông đúc qua lại, bề bộn, dập dìu.

 

Cảnh thái bình thịnh trị khắp nơi nơi, không người ăn xin, ai cũng được no cơm ấm áo. Kinh Dương Vương lòng đầy khoan khoái, cho ngựa đi chầm chậm thưởng thức cảnh miền quê êm ả hiền hòa. Trước mặt là con sông lớn nhưng Kinh Dương Vương hình như không để ý, ngựa người vẫn lướt bon bon trên mặt nước, ai nhìn thấy cứ ngỡ đó là Thần Tiên trên trời dạo chơi nơi chốn nhân gian, vượt qua bao rừng núi, con suối, con khe, hố sâu vực thẳm như đi trên đường lộ, nhìn cảnh núi rừng hoa khoe sắc thắm, hương thơm nức mũi, đá chen hoa hoa chen lá, lá trong mây, mây trong gió, gió làm cho người dễ chịu khoan khoái lân lân.

 

Ôi Quê Hương, ôi Núi Rừng xanh biếc Đá chen Hoa, nực Hương trời thơm ngát Hoa chen lá, cảnh Bồng Lai hạ giới Lá chen Mây, đang thì thầm xuân tới  Mây trong Gió, tình càng thêm nồng ấm đưa hồn người lên tới tận trời xa. Cảnh Thái Bình, trổ no ấm âu ca. Kinh Dương Vương, lòng đầy khoan khoái, ngựa cùng người chầm chậm lướt lướt qua. Kinh Dương Vương nhìn cảnh Núi Rừng muôn Hoa đua sắc, mùa xuân lại về, mùa hội tụ lại đến, cảnh bà con thân tộc, cha con chồng vợ anh em sum vầy ấm cúng, bên cổ mâm xôi, bên nồi bánh tắc, Xuân Trời, Xuân Đất, Xuân Tình thi nhau nở rộ.

 

Hồ Động Đình lần lần xuất hiện, Kinh Dương Vương cảm thấy rất vui, thoáng cái người ngựa đã đến nơi. Hồ Động Đình quang cảnh vừa kỳ bí vừa xinh đẹp, chẳng khác gì Bồng Lai Tiên Cảnh, có lẽ nơi đây là Bồng Lai chốn cõi trần. Kinh Dương Vương xuống ngựa đi dạo quanh bờ Hồ như đang lạc vào Bồng Lai Tiên Cảnh. Bổng xuất hiện giữa Hồ một bóng Hồng tha thướt, tà áo miên man phất phơ theo gió. Kinh Dương Vương bị cuốn hút theo người con gái đẹp như Hằng Nga gián thế, bước chân nhẹ nhàng trên mặt nước. Kinh Dương Vương nghỉ nàng là ai từ đâu đến, Thần Tiên ở cõi nào đến dạo chơi nơi đây.

Nàng là ai, từ đâu nàng đã đến

Như vầng trăng, rực sáng cõi nhân gian

Ta đang mơ, hay lạc đến Thiên Đàng

Tà áo nhẹ, lướt trên Hồn thi sỉ

Nàng là Ma, hay là loài ác Quỷ

Cuốn hồn ta, theo nhịp bước nàng đi

Nàng là ai, nàng đừng vội bay đi.

 

Kinh Dương Vương nhìn nàng con gái thanh nhã, cao sang như đang tìm kiếm vật gì đó. Kinh Dương Vương nào có hay biết người con gái xinh đẹp quí phái kia đang tìm kiếm giấc mơ của mình mà Nữ Thần hạnh phúc đã mách bảo. Con hảy đến giữa lòng Hồ Động Đình tìm lấy hạnh phúc của con. Nàng đến đây tìm hơn nữa giờ mà vẩn không thấy, quả tim hạnh phúc ở đâu. Nhưng nàng vẫn kiên trì đi tới đi lui giữa Hồ để tìm kiếm.

 

Kinh Dương Vương bị cuốn theo sắc đẹp bước chân, tà áo và sự tìm kiếm của nàng. Kinh Dương Vương như bị nam châm hút lấy, phi thân xuống Hồ đi ra gặp nàng. Người con gái đẹp như Tiên Hằng Nga đang tìm kiếm gì đó giữa mặt Hồ, bổng phát hiện có người từ xa đi đến, đi trên mặt nước như đi trên đất liền, thời lấy làm kinh ngạc, nhìn xem người tài cao đó là ai, Thần Tiên ở cõi nào đến, khi đã nhìn rõ, nàng bỗng nhiên hồi hộp lạ thường. Thì ra người mới đến là một trung niên cao to vạn vở, khôi ngô tuấn tú, khí sắc oai hùng, chẳng kém gì Thần Tiên gián hạ dạo chơi chốn phàm trần, quả tim nàng đã đập loan lên.

 

Kinh Dương Vương càng tới gần càng thấy người con gái đẹp lộng lẫy, có lẽ còn đẹp hơn cả Hằng Nga nữa là khác. Kinh Dương Vương vốn là người không màn đến tửu sắc, thế mà nhìn người con gái mới gặp gỡ này quả tim liền rung động. Người con gái thấy khí sắc oai hùng khôi ngô tuấn tú.

 

Kinh Dương Vương sanh tâm kính mến bước tới chào hỏi. Nhìn vẻ quí phái cao sang lễ phép cung cách như Công Chúa, thời nhìn sửng nghỉ nàng là ai? Đến khi giật mình thời nhận ra sự thất kính của mình thời:

   Xin lỗi, xin lỗi cô nương tha cho sự vô lễ thất kính của tôi.

 

Nhìn vẽ lúng túng điệu bộ của Kinh Dương Vương có pha chút khôi hài, nàng liền hết giận phì cười, ôi nụ cười của nàng đẹp làm sao, tươi như cánh Hoa mới nở, đẹp như mùa xuân rực rỡ. Kinh Dương Vương không kiềm được lòng mình, khen nàng cười đẹp quá. Có phải đây là duyên nợ hay không. Biết bao nhiêu lần khen nàng cười đẹp nhưng nàng không hề chú ý, nhưng lần này lại khác. Nàng nghe như mật ngọt rót vào hồn lân lân khó tả, quả tim đập mạnh đôi má ửng hồng, như vừa uống phải một ly rượu mạnh.

 

Bổng cô bạo dạng lên tiếng:

   Ngài là ai tìm tôi có chuyện gì?

 

Thấy Kinh Dương Vương lặng im không trả lời nàng có ý hờn giận, hỏi lại như có vẻ hơi gắt gỏng hơn:

   Ngài tìm Tiểu Long Nữ tôi có chuyện gì?

 

Kinh Dương Vương à một tiếng nghỉ thì ra đây là Tiểu Long Công Chúa, Vương Tộc Long Giao. Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc đến đổi đờ người ra, không lẽ đây là duyên tiền định. Kinh Dương Vương nhìn Tiểu Long Công Chúa đang giận dỗi liền phì cười:

   Chấp tay xin lỗi, xin lỗi Tiểu Long Công Chúa, tôi là Lộc Tục, theo giấc mơ đến đây vô tình gặp Công Chúa mà thôi.

 

Tiểu Long Nữ nghe Kinh Dương Vương nói thế thời lấy làm kinh ngạc, tự nghỉ sao lại trùng hợp với mình thế, mình cũng đang tìm giấc mơ hạnh phúc. Thế là lời qua tiếng lại càng lúc càng tâm đầu ý hợp, như đã quen biết từ lâu rồi, tình yêu liền đâm chồi mọc rễ hòa quyện lẩn nhau.

Mưa yêu từ thuở xa xăm

Cho hạt nẩy mầm xanh tốt từ đây

Trời xanh gió đã dìu mây

Cây đà nẩy lộc, vương cành đơm hoa

Chim Tình mọc cánh bay xa

Vườn xuân vầy hội Bướm Hoa tựa kề

Hồ gương in bóng trăng thề

Trúc - Mai má tựa vai kề yến oanh.

 

Kinh Dương Vương tuy là người không háo sắc nhưng gần Tiểu Long Nữ cầm lòng không được liền bước tới nắm lấy tay nàng nói:

   Ta tuy là vị Vương nỗi tiếng giàu có hùng mạnh nhưng ta chưa bao giờ xâm lược hay đàng áp Bộ Tộc, Vương Tộc nào, luôn luôn tôn trọng lẩn nhau, kết tình bằng hửu. Nhất là Vương Tộc Long Giao ta vô cùng kính mến.

 

Tiểu Long Nữ cắt ngan:

   Thì ra chàng đã biết Tiểu Long là Công Chúa Long Giao.

 

Kinh Dương Vương nói:

   Ta nghe nàng nói nàng là Tiểu Long Nữ, ta liền nghỉ ngay nàng là Tiểu Long Công Chúa.

 

Tiểu Long Công Chúa như chợt nhớ ra điều gì nhìn Kinh Dương Vương một cách kỳ lạ. Kinh Dương Vương thấy cử chỉ Tiểu Long Nữ khó hiểu:

   Ta kỳ lạ lắm sao mà nàng nhìn ta dữ vậy.

 

Tiểu Long Nữ bắt đầu nói:

   Không phải.

 

Kinh Dương Vương không hiểu gì cả.

 

Tiểu Long Nữ hỏi! Chàng nói chàng là Vua một đất nước giàu có hùng mạnh.

 

Kinh Dương Vương gật đầu.

 

Vương Quốc nước Xích Quỉ sao? Kinh Dương Vương lại gật đầu, chàng là Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương lại gật đầu, thiếu chút nữa Tiểu Long Nữ la lên vì kinh ngạc. Có lẽ lời đồn đã sai.

 

Kinh Dương Vương hỏi! Nàng nghe đồn gì về ta.

 

Tiểu Long Nữ nói lời đồn Kinh Dương tuổi đã cao có dư trăm, lại chưa có con nối dõi. Ngôi Quốc Vương sẽ đổi chủ. Dòng dõi Kinh Dương Vương kết thúc.

 

Kinh Dương Vương thở dài cũng tại ta, không chịu kết nạp thê thiếp.

 

Tiểu Long Nữ nói thật kỳ lạ Kinh Dương Vương lời đồn dư trăm tuổi, còn Kinh Dương Vương, Long Nữ gặp đây chỉ độ 40 tuổi là cùng.

 

Kinh Dương Vương lại thở dài nói:

   Có lẽ do ta tu luyện, cũng có lẽ trời phú cho ta lâu già, ta nay đã 100 tuổi hơn nữa đời người.

 

Tiểu Long Nữ như có điều suy nghỉ, nhưng thoáng chốc Tiểu Long Nữ vui trở lại, hai người dạo chơi hết dưới nước rồi lên bờ Hồ, cuộc vui chơi nào cũng đến lúc chia tay. Tiểu Long Nữ về Vương Tộc Long Giao. Kinh Dương Vương về Kinh Đô Xích Quỉ.

*********

 

Hết phần 1 chương 5 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 2 chương 5.

 

 

 

CHƯƠNG  5

 

PHẦN 2

 

Hai người chia tay không bao lâu, thời Kinh Dương Vương cho Sứ Thần qua Vương Tộc Long Giao cầu hôn Công Chúa Thần Long Nữ. Thần Long Nữ vừa xinh đẹp vừa hiền thục, nên về làm vương phi chưa lâu, thế mà đã chiếm được lòng các quan lớn nhỏ trong triều.

 

Vương Hậu không những không ganh ghét mà hết lòng yêu thương Vương Phi. Vương Hậu thấy mình đã có lỗi trong việc sanh con đẻ cái, sợ dòng dõi Kinh Dương Vương tiệt hậu. Nên sớm hôm lập bàn hương án cầu Trời cầu cho Vương Phi Thần Long Nữ có con, sớm sanh Quí Tử. Có lẽ lời cầu nguyện ấy cảm ứng đến Đức Long Hoa Cha Trời Lạc Long Quân và Đức Địa Mẫu Âu Cơ, nên Đức Cha Trời sai Đức Chí Tôn đầu thai xuống chốn nhân gian, sanh vào dòng dõi Kinh Dương Vương làm con Thần Long Nữ.

 

Nói về Thần Long Nữ sau khi về làm vương thiếp không đặng bao lâu thời có mang, tin vui này đã lan truyền khắp nước Xích Quỉ, làm cho cả nước Xích Quỉ reo hò nhảy múa. Còn nơi Cung Vương Phi lúc nào cũng có kẻ ra người vào tấp nập. Vương Hậu thường đến bầu bạn với Vương Phi. Kinh Dương Vương luôn luôn tạ ơn Trời Đất, Hương Hoa, Trà, Quả cúng dường không ngớt. Có điều khác lạ ở đây, Kinh Dương Vương không dâng cúng Gà, Heo, Trâu, Bò mà chỉ cúng bằng Hương Hoa, Trà Quả, Rượu thơm, Xôi Nếp với tấm lòng thành kính của mình.

 

Có lẽ Kinh Dương Vương nghỉ, Trời là Đức Hiếu sanh, tất cả sanh linh đều liên quan đến nhà Trời nên không thể dùng sanh mạng dâng cúng, chỉ dâng cúng Hương Hoa, Trà Quả, Rượu thơm, Xôi Nếp là thích hợp nhất. Sự cúng dường không sát hại sanh mạng của Kinh Dương Vương làm tăng thêm phước Đức, các vị Thiên Thần hài lòng lắm, nên luôn luôn hộ trì hộ độ cho Kinh Dương Vương cũng như dòng dõi vương tộc bình an vạn sự.

 

Đúng vào ngày 20 tháng 2 năm giáp thìn, Vương Phi Thần Long Nữ chuyển dạ sanh con. Trước đó mấy hôm vào lúc canh ba, Thần Long Nữ trong lúc mơ màng, Trời Đất đang trong sáng, bổng nhiên tối sầm, Ma Quỉ lộng hành, chúng thi nhau phù phép thổi luồng tà khí, dục vọng, tham lam, ganh ghét, trộm cướp, hận thù, tranh giành cuồng loạn, chém giết lẩn nhau, máu chảy thành sông, thây chất đầy núi. Cảnh binh đao múa lửa dậy trời, nhà tan cửa nát, tiếng cầu cứu khóc la thảm thiết, ôi thế nhân đến hồi mạc vận. Vương Phi Thần Long Nữ vô cùng kinh sợ, càng thấy càng khiếp vía kinh hoàng, chưa biết phải làm sao.

 

Thời lạ thay Vương Phi Thần Long Nữ thấy giữa không trung xuất hiện một vị Thiên Đế uy nghi Hùng Dũng, tay cầm gươm báu, ba đạo Hào Quang sáng chóa, xông vào đám Yêu Tinh mà diệt trừ. Vị Thiên Đế hét to. Hởi lũ Yêu Tinh, Tà Quỉ. Tà tánh của các ngươi từ mê si ngu muội mà ra. Các ngươi là loài Quỉ dữ Ma Thiên. Chuyên làm mưa làm gió gieo rắc chiến tranh. Đầu độc nhân loại. Làm tổn hại con cháu nhà Trời. Nay ta vâng lệnh Cha Trời xuống thế mà trừ hại cho nhân loại con người. Tức thời gươm Huệ vung lên Sấm nổ vang trời. Ba Đạo hào quang rực rỡ. Hiện ra hàng nghìn hàng vạn mặt trời thiêu rụi Tà Quỉ Yêu Tinh. Bóng u minh, khói lửa chiến tranh biến mất. Non sông đất nước thái bình. Bầu trời trong xanh mát mẻ. Mùa xuân lại về, muôn hoa thi nhau đua nở. Chim muôn vạn thú ca hát nhảy múa liếu lo. Cảnh ăn no mặc ấm, con đàng cháu đống tràng ngập thôn quê, Phố thị, núi rừng. Vương Phi Thần Long Nữ còn đang ngơ ngơ ngẩn ngẩn mở to đôi mắt mà nhìn. Bổng chốc vị Thiên Đế đến gần, hào quang rực rỡ mỉm cười rồi biến mất.

 

Nói về Vương Phi chuyển dạ cuối giờ Mẹo đầu giờ Thìn thời sanh ra một Hoàng Nam tướng mạo khôi ngô tuấn tú. Giống hệt vị Thiên Đế trong giất mơ.

 

Lúc Vương Phi Thần Long Nữ sắp sanh Thái Tử. Mùi Chiên đàng hương thơm ngát cả cung thành. Kỳ lạ thay Hoa Lan khắp non sông Tổ Quốc đồng nở rộ, hương thơm ngào ngạc rực rỡ chưa từng có trong đời.

 

Tiếng hát ca từ Thiên Cung vọng xuống ca ngợi Đức Chí Tôn xuống thế Độ Đời. Các Thiên Thần, thi nhau rưới hương Sen, hương Lan, hương Huệ, hương Mai, và còn nhiều thứ hương khác nửa, từ trên không rơi xuống khắp khung thành.  Những người ốm đau liền khỏi hẳn. Những người mù lâu năm bổng dưng sáng mắt ra. Trí Đức tăng cao, mê mụi đẩy lùi. Ai nấy thấy mình trào dâng sức sống. Mùi Hương thơm đã dứt đi sự lo âu sầu muộn, đưa con người đến an lạc yên vui. Kinh Dương Vương nhìn Thái Tử triều mến thương yêu.

 

Vương Phi Thần Long Nữ ngắm nhìn hài nhi hồi lâu, rồi thưa với Kinh Dương Vương rằng:

   Hài Nhi quả đúng là vị Thiên Đế trong giất mơ ấy rồi. Vị Thiên Đế anh hùng. Một mình quét sạch Yêu Tinh Quỉ Dữ.

 

Kinh Dương Vương chiếu theo lời kể của Vương Phi. Thời vị Thiên Đế nầy, chính là Chí Tôn anh hùng xuống trần cứu dân Độ Thế. Nên Kinh Dương Vương đặt tên cho Thái Tử chữ đầu tiên là chữ Hùng khi sanh ra Thái Tử. Hoa Lan khắp non sông Tổ Quốc nở rộ. Hương Lan thơm ngát lan tràng khắp hang cùng ngõ hẻm. Ta vốn chữ đầu là Lộc, mùa xuân, Lan cũng thuộc mùa xuân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. Vì thế ta đặc Tên cho con ta là Hùng Lan. Thêm chữ Cao ở giữa vì Tổ Tiên Ta là Trời. Từ thời Viêm Đế Thần Nông đến thời Kinh Dương Vương Ta đều thờ một chữ Cao. Hùng Cao Lan. Nhưng khi gọi con chỉ gọi Hùng Lan vì Chữ Cao Họ Trời, Trời Cao. Thiên Tổ  Chúng Ta.  Đây là điều cơ mật nối truyền cho đến ngày nay.  Hùng Lan còn nhiều ý nghĩa khác, như Hùng Thiên, Hùng Khí, Hùng Anh. Lan tỏa, Lan tràn, Lan truyền, khắp Thế Giới năm Châu bốn bể. Trần gian, Thiên đàng, Vũ trụ.

 

Còn chữ Lang có g là sau nầy Hùng Lan. Dựng nước Văn Lang. Là một đất nước hung dữ, như Lang sói Hổ Báo, đụng đến là bỏ mạng vì thế đã làm khiếp đảm quân thù, ngoại xâm hàng nghìn năm. Vương phi Thần Long Nữ đã sanh ra vị Thiên Tài có một không hai nơi trần thế, nên sau này Thần Long Nữ được suy tôn Đức Thánh Tổ Mẫu. Chính là Đức Vương Mẫu trên cung Trời Đao Lợi Thiên, quyền lực vô biên.

*********

 

Hết phần 2 chương 5 mời xem tiếp phần 3 chương 5 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là bộ kinh tối cao, những tinh hoa Mật Tạng Vũ trụ đều gói gọn trong bộ kinh nầy. Những ai gặp được bộ kinh Long Hoa Mật tạng, phải nói là vô cùng hạnh phúc. Có thể nói những người nầy đã tu vô lượng kiếp làm nhiều phước thiện, nên mới sanh ra đúng thời kỳ Long Hoa Mật Tạng ra đời làm chủ vận mệnh, làm chủ tất cả.

Đất nước Việt Nam thật diệu kỳ

Trổ Rồng trổ Phụng lắm uy nghi

Lịch sử Cha Ông rền sông núi

Tài đức song toàn sách sử ghi

Văn Hóa Rồng Tiên đã ra đời

Sáng bừng chân lý sáng ngời ngời

Con cháu Tiên Rồng anh linh khắp

Việt Nam hùng khí rạng tinh khôi.

 

 

 

CHƯƠNG  5

 

PHẦN 3

 

XEM TƯỚNG.

 

Thành Giang Nam có vị Đạo Sĩ kỳ tài, nổi tiếng chuyên đón mộng lại có tài xem tướng như Thần, nổi tiếng như sấm. Nay Thái Tử Hùng Lan vừa tròn một tuổi. Kinh Dương Vương cho người mời Đạo Sĩ tài ba ấy vào cung đón mộng cho Vương phi Thần Long Nữ, xem tướng cho Thái Tử Hùng Lan, lành dữ vận mệnh về sau thế nào.

 

Đạo Sĩ nhà tướng số 1 kỳ tài đương thời được đưa vào cung ra mắt Kinh Dương Vương và Vương Phi Thần Long Nữ. Kinh Dương Vương xem qua tướng mạo Đạo Sĩ thấy trên đầu có Hào Quang tỏa ra thời lấy làm vừa lòng lắm nói:

   Ta đã nghe tài năng của Đạo Sĩ từ lâu nay ta có việc cần nhờ Đạo Sĩ giúp cho.

 

Đạo Sĩ chấp tay hành lễ nói:

   Bẩm Quốc Vương bần Đạo sẽ làm hết khả năng của mình, Quốc Vương cứ dạy bảo.

 

Kinh Dương Vương nói Vương Phi hãy kể lại giấc mộng trước khi sanh Thái Tử cho Đạo Sĩ nghe đi. Vương Phi nói thần thiếp tuân lệnh: Vương Phi liền kể lại đầu đuôi giấc mộng trước khi sanh Thái Tử.

 

Đạo Sĩ ngồi chăm chú lắng nghe, vương phi kể đến đâu Đạo Sĩ kinh hãi đến đó, Vương Phi kể xong Đạo Sĩ nói:

   Bẩm Quốc Vương có thể cho Bần Đạo xem qua tướng Thái Tử được không.

 

Kinh Dương Vương nói:

   Được được chứ, đó là mục đích chính ta mời Đạo Sĩ đến đây.

 

Liền cho Cung Nữ xảo yếu hầu tì bồng Thái Tử ra. Đạo Sĩ vừa nhìn thấy Thái Tử thời sửng sốt vì trên đầu Thái Tử phát ra Hào Quang Trí Huệ, tuy chưa sáng tỏ lắm, từ xưa đến nay Đạo Sĩ chưa từng thấy dù cho đó là Thiên Tiên hay Địa Tiên.

 

Khi được tận mắt chứng kiến một nhân thể bất phàm, có đủ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp. Quả đúng là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần, có 1 không 2 trong nhân loại. Nếu xuất gia sẽ là Phật Tổ, Chúa Tổ, còn không xuất gia sẽ là Chuyển Luân Vương, không đánh mà hàn phục được Thiên Hạ. Bất chiến tự nhiên thành. Lập lên đất nước rộng lớn, mở ra trang sử mới. Trang sử vẻ vang đưa đời sống nhân loại vượt lên tầm cao mới. Mở màn cho nền văn minh vật chất lẩn tinh thần, khám phá lần về vũ trụ, làm chủ vũ trụ. Chân lý Đại Đồng sẽ mở màn ra đời.

 

Đạo Sĩ rơi lệ quì xuống vái lạy Thái Tử. Kinh Dương Vương giật mình, vương Phi kinh hãi, không hiểu chuyện gì xảy ra.

 

Kinh Dương Vương lo lắng hỏi:

   Đạo Sĩ làm sao vậy? điểm gì xảy ra cho Thái Tử lành dữ thế nào hãy nói cho ta rõ.

 

Đạo Sĩ nói:

   Bẩm Quốc Vương chỉ có lành chứ không có dữ, Bần Đạo lạy đây là lạy Đức Chí Tôn lâm phàm, Cứu Dân Độ Thế, Đại Từ Đại Bi. Thương dân như thương con ruột của mình. Bần Đạo khóc đây là khóc tuổi đã già, không được nghe Chí Tôn thuyết giáo, uổng biết bao vì kém Đức, thiếu nhân duyên với Đức Chí Tôn nền sanh ra làm người hơi sớm, không được nghe lời dạy của Đức Chí Tôn. Đạo Sĩ càng nói nước mắt càng chảy.

 

   Theo lời Vương Phi kể, vì Thiên Đế tay cầm gươm báu, đó không phải là gươm thường mà đó là gươm Thiên Trí Huệ. Có 3 đạo Hào Quang, đó là ánh sáng Hiến Pháp, Luật Phát, Đạo Pháp. Thiên Tạng, Luật Tạng, Pháp Tạng vũ trụ, Tam Bảo Chí Tôn. Chỉ cần nghe hiểu một câu trong Tam Bảo Chí Tôn thời diệt được vô lượng tội ác. Mạng chung liền được siêu sanh về thượng giới, huống chi được nghe Chí Tôn thuyết giáo thời hạnh phúc biết bao. Vỉnh viển không còn đọa lạc. Thường làm Vua làm Chúa ở các cõi Trời. Chỉ có Đức Chí Tôn mỗi lần vung Kiếm Trí Huệ, thời hiện ra vô số Mặt Trời, Mặt Trời Công Lý, Mặt Trời Hiến Pháp, Mặt Trời Đạo Đức, Mặt Trời Bình Đẳng, Mặt Trời Nhân Quyền, Mặt Trời Tự Do, Mặt Trời Luật Pháp, Mặt Trời Khoa Học và cho đến hàng nghìn hàng vạn Mặt Trời cùng chung mục đích là thiêu rụi lòng tà gian tối tăm che khuất tâm linh con người vô minh tan biến, Cội Nguồn vũ trụ hiện ra, nhân loại Thăng Hoa tiến tới cảnh Đại Đồng vũ trụ. Những người nghe Thái Tử thuyết giáo thời coi như siêu thoát Linh Hôn về nơi Cực Lạc. Quốc Vương và Vương Phi sẽ được lưu danh mãi mãi vì đã sanh ra Đức Chí Tôn.

 

Kinh Dương Vương cùng Vương Phi nghe Đạo Sĩ nói như vậy, thời mừng lắm. Ban thưởng trọng hậu cho Đạo Sĩ, sau đó sắm lễ vật dâng cúng tạ ơn Trời Đất.

 

PHẦN THƯA HỎI

 

Hỏi: Nguồn gốc dân tộc Rồng Tiên phát nguồn từ đâu?

 

Đáp: Phát nguồn từ thời Hồng Hoang Bàng Cổ sơ khai, nếu nói gần thời từ đầu tiểu kiếp thứ 9 đến nay đã trải qua 16 triệu 7 trăm 90 nghìn năm.

 

Hỏi: Dân Tộc Rồng Tiên phát nguồn xa hơn nữa thời cách đây bao lâu?

 

Đáp: Dân Tộc Rồng Tiên ra đời cách đây hơn 4 tiểu kiếp, nơi dãy núi Long Hoa, cách 75 triệu 600 nghìn năm.

 

Hỏi: Dân Tộc Việt Nam thừa hưởng di sản Cội Nguồn quí giá như vậy, sao không biết phát huy để thừa hưởng mà còn tìm kiếm những Văn Hóa đâu đâu, dẩn đến nô lệ chiến tranh loạn lạc, nồi da nấu thịt lạc hậu nghèo đói truyền miên.

 

Đáp: Theo tôi nghỉ, con cháu Việt Nam có nền văn hóa Tiên Rồng lâu đời tốt đẹp như vậy, đáng lý ra Con Cháu Việt Nam ra sức giữ gìn phát huy mỗi ngày mỗi tốt đẹp, nhớ mãi công ơn của Vua Hùng đã truyền lại. Có lẽ vì Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng đã thất truyền, phần thì bị ngoại xâm di hại, những kẻ yếu kém về lòng trung hiếu nghe theo tà kiến ngoại ban, làm hại đến truyền thống văn hóa Cội Nguồn dân tộc, mới dẩn đến cái cảnh nồi da nấu thịt, chiến tranh loạn lạc, hạn chế trình độ dân trí phát triển, dẩn đến lạc hậu nghèo đói triền miên. Chúng ta đã làm chủ kho tàng kiếm thức vũ trụ là niềm vinh hạnh nhất, không có sự vinh hạnh nào hơn, cũng không có hạnh phúc nào hơn. Nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội lần nữa thời chúng ta sẽ mất tất cả. Con đường nô lệ sẽ lặp lại, Địa Ngục trần gian sẽ bao phủ lấy chúng ta.

 

Hỏi: Văn Hóa Cội Nguồn Tiên Rồng có phải là giáo phái Tôn giáo không?

 

Đáp: Văn Hóa Cội Nguồn do chính Hùng Vương Quốc Tổ sáng lập là Thiên Đạo vũ trụ, Chủ Nghĩa Đại Đồng, Hiến Pháp Văn Lang, Quốc Đạo Dân Tộc. Có thể nói Quốc Đạo Tiên Rồng không phải là giáo phái Tôn Giáo mà là hiện thân Hiến Pháp vũ trụ, Luật pháp vũ trụ, Công Lý Bình Đẳng vũ trụ.

 

Hỏi: Chủ Nghĩa Đại Đồng là gì?

 

Đáp: Nếu nói gần thời tất cả nhân loại, điểm xuất phát là từ một nguồn gốc, từ trong bọc trứng ÂU CƠ sanh ra, mang ý nghĩa Đồng Bào, nói lên nhân loại thế gian năm màu da đều là anh em một nhà, không phải nói riêng nhân loại trần gian mà ngay cả nhân loại trên các cõi Trời. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng đều là anh em một nhà, sinh ra từ một nguồn gốc, sống chung trong một nhà vũ trụ. Còn nói xa hơn nữa, tất cả Linh Hồn nhân loại. Tiểu Linh Hồn là do Đại Linh Hồn vũ trụ tạo ra mà thôi ví như Đại Linh Hồn là nước tạo ra Tiểu Linh Hồn bọt nước mà thôi. Bản thể nước thời có một. Còn bọt nước thời nhiều vô lượng vô biên. Chủ Nghĩa Đại Đồng nói về bản thể của nước Đại Linh Hồn vũ trụ mà tất cả bọt nước Tiểu Linh Hồn hướng về Cội Nguồn của mình. Tiến đến cảnh giới giác ngộ tối cao Chánh Đẳng, Chánh Giác, Đồng trí, Đồng tướng, Đồng tánh. Bọt nước trở về là Nước, Tiểu Linh Hồn nhập về Bản thể Đại Linh Hồn.

 

Hỏi: Thờ Cha Trời Lạc Long Quân. Thờ Địa Mẫu Âu Cơ, Phước Đức giải thoát tội lỗi hơn Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa không?

 

Đáp: Có thể nói thờ hết Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa khắp vũ trụ Tam Thiên Đại Thiên thế giới, cũng không bằng thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ. Vì sao như vậy? Vì Đức Cha Trời, Đức Địa Mẫu là do Tổ Tiên Khai Hóa, Đại Linh Hồn vũ trụ hiện thân ra hai Đấng tối cao vũ trụ. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng như vận mệnh Non Sông Tổ Quốc của mỗi dân tộc, đều do hai Đấng Cha Trời Địa Mẫu, chuyển vận bộ máy huyền cơ quyết định. Phải nói chưa có Phật, Tiên, Thánh, Chúa nào lập lên vũ trụ, Tam Thiên Đại Thiên thế giới mà do Tổ Tiên Khai Hóa, khai tạo lập nên, rồi hiện thân ra Đức Cha Trời Địa Mẫu, cai quản gian sang vũ trụ sự nghiệp ấy. Vì vậy thờ Đức Cha Trời Lạc Long Quân cùng Đức Địa Mẫu Âu Cơ, thời phước Đức không thể nghỉ bàn cho hết được. Điều đáng nói ở đây thờ Trời phải thành tâm, thời sự linh ứng cùng tột, có thể nói cầu chi đặng nấy.

*********

 

Hết phần 3 chương 5 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 5.

 

 

 

CHƯƠNG  5

 

PHẦN 4

 

Nước Xích Quỷ vang lừng Thái Tử

Dậy Phương Nam trổ đức, trổ nhân

Hùng Lan Thiên Đức Chí Tôn

Xuống trần lập giáo dựng nên cơ đồ.

 

Thái Tử Hùng Lan càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường, khôn ngoan, Đạo Đức nhân từ hiếm thấy. Thái Tử tuy tuổi còn nhỏ nhưng tiếng lành đồn xa lan rộng khắp nơi.

 

Ngày qua tháng lại như thoi đưa, mới đó Thái Tử Hùng Lan đã hơn 14 tuổi, một hôm Thái Tử một mình dạo chơi chốn hoa viên, thời bổng dưng xuất hiện một người xa lạ, Thái Tử chưa từng gặp bao giờ. Người ấy chấp tay cuối đầu chào Thái Tử. Thái Tử nhìn người xa lạ, Tiên Phong Đạo Cốt khí chất khác phàm sinh lòng kính nể.

 

Thái Tử chấp tay thi lễ hỏi:

   Ngài từ đâu đến, tìm ta có chuyện gì?

 

Người xa lạ đáp:

   Hạ dân từ Cội Nguồn đến, nghe tiếng Thái Tử thông minh hơn người, không có câu hỏi nào mà Thái Tử bí trả lời không được, nên đến đây hỏi Thái Tử vài câu.

 

Thái Tử nhìn người xa lạ hỏi:

   Cội Nguồn là ở nơi nào?

 

Người xa lạ đáp:

   Cội Nguồn nếu nói xa thời xa lắm, nếu nói gần thời ở ngay trước mắt.

 

Thái Tử khó hiểu với lối trả lời này, thấy Thái Tử chú tâm suy nghỉ, người xa lạ nói Thái Tử cho phép hạ dân hỏi đôi lời được không? Thái Tử đáp Ngài cứ hỏi.

 

Người xa lạ hỏi:

   Thưa Thái Tử ai cũng biết Thái Tử sẽ là vị Quốc Vương chủ nhân của một đất nước Xích Quỷ giàu có hùng mạnh, Thái Tử nghĩ gì về nhân loại khi nhân loại vẩn còn nhiều sự khốn khổ, khổ về mê muội, khổ về chiến tranh, khổ về lạc hậu, khổ về sanh, lão, bệnh, tử. Còn riêng bản thân Thái Tử nghĩ về mình thế nào? Lối sống vinh quang, cũng như sự chết chia ly rốt cuộc Thái Tử được những gì khi Thái Tử rời xa chốn trần gian nầy ?

 

Thái Tử hết sức ngạc nhiên với lối hỏi này, một câu hỏi không dễ gì trả lời ngay được ngập ngừng một lát nhưng rồi Thái Tử cũng trả lời. Thái Tử trả lời rằng:

   Con người là Động vật thiêng liêng trên cả muôn loài Cầm Thú. Con người là giai cấp Động vật Chính trị, dòng máu Chính Nghĩa, tự chủ trực tính của chính mình, vì vậy con người có thể nhận thức được cuộc sống của chính mình, sống trong hạnh phúc hay sống trong đau khổ. Sanh ra ở đời ai cũng muốn mình được Thăng Hoa, nhất là sống trong hạnh phúc, sống trong Độc Lập Tự Do, sống trong Hiến Pháp, Luật Pháp Bình Đẳng, nhân quyền, quyền sống con người được bảo vệ, Tự Do mưu cầu hạnh phúc thời cuộc sống ý nghĩa hơn.

 

   Vì thế làm quốc vương chủ nhân của một đất nước thời phải biết tôn trọng ý nguyện của muôn dân, nhất là biết tôn trong quyền tự do Mưu Cầu Hạnh Phúc muôn dân, cũng như giải thoát sự mê tín dị đoan tôn thờ thú cầm, tôn thờ tà kiến. Hạ thấp giá trị con người. Trên đời nầy không có động vật nào cao hơn con người, linh hơn con người, nên con người không cần cuối đầu trước muôn loài vạn vật, nhất là muôn loài cầm thú. Cũng như  không có loại yêu tinh ác quỉ nào hơn được con người, khi con người hiểu đạo đức và sống theo đạo đức.

 

   Thế giới cuộc sống nhân loại thời nay chưa được như vậy nhất là tần lớp nhân dân tần lớp quá lạc hậu, vì họ đang sống trong chế độ hà khắc, sống dưới cửa Quyền Độc trị, phong kiến Thần Giáo. Không phải sống trong Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Quyền Nhân Chủ con người sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý Bình Đẳng Thiên ý Đạo Đức. Theo đúng nghĩa Quốc Vương chỉ là người đi đầu, đứng đầu giải quyết mọi vấn đề bất công đem lại  sự Công Bằng Bình Đẳng cho cuộc sống xã hội. Xây dựng một môi trường sống cạnh tranh lành mạnh trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp ai cũng được trổ tài cống hiến cho xã hội làm giàu cho xã hội. Quốc Vương chỉ là đầy tớ trung thành, tôn thờ Hiến Pháp, Luật Pháp, bảo vệ Công Lý Bình Đẳng Chính Nghĩa mà thôi, không có sự Độc Tài Độc Trị không tôn thờ giáo điều Tà Giáo tà kiến. Nhưng nhân loại hiện nay các Quốc Vương khắp thế giới chỉ biết theo xu thế theo Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị, không hiểu gì về Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp lấy dân làm gốc Công Bằng, Bình Đẳng xã hội, chỉ biết độc tài độc trị muốn làm gì thì làm tàn bạo lạm sát. Không những không giải thoát được sự khốn khổ của dân, mà còn đẩy dân chúng vào con đường  cuồng tín mê tín dị đoan, làm cho xã hội không đi vào ổn định trật tự, cạnh tranh mất bình đẳng mạnh được yếu thua thắng là vua thua là giặc, mãi mãi là đói khổ mê muội chiến tranh lạc hậu tàn sát lẫn nhau. Khi ta làm Quốc Vương ta không giống nhưng những Quốc Vương hiện tại, ta có hướng đi khác. Biết lột bỏ những gì lạc hậu tiến hóa đổi mới đi lên làm cho cuộc sống muôn dân đơm hoa kết quả hạnh phúc.

 

   Hiện nay nhân loại Họ đang sống dưới chế độ phong kiến Thần Giáo, phong kiến Tộc trị, tiến xa hơn nữa là chế độ thể chế Độc trị, chế độ thể chế độc trị Tôn Thờ Thần Mặt Trời như thời Kinh Dương Vương ta, một lối sống được coi như là hơn hẳn các Vương Quốc đất nước khác sống có luật có lệ. Không như các Vương Quốc khác. Nhân loại đang sống trong nô lệ Tộc trị, nô lệ mê tín dị đoan, nô lệ ngoại ban. Sống trong lao dịch khổ sai, sống trong áp bức, sống mất tự do, sống trong lo âu sợ hãi, chưa nói đến nghèo đói và bệnh tật. Sống như vậy thời có ý nghĩa gì và tôi đang tìm hướng đi mới, cho đất nước Xích Quỷ hướng đi của Chủ Nghĩa Đại Đồng, Chủ Nghĩa Bình Đẳng, Công Bằng Văn Minh, Chủ Nghĩa của sự tự do tôn trọng quyền con người lấy dân làm gốc ai ai cũng được tự do hạnh phúc.

 

Người khách lạ không mời mà đến càng nghe Thái Tử nói càng mở rộng kiến thức cho mình như trong màng đêm thấy được ánh sáng mặt trời, những ý tưởng mới lạ chưa bao giờ được nghe qua nếu không phải là bật Đại giác ngộ thời không thể nào hiểu nỗi ý tưởng thâm cao ấy của Thái Tử, càng nghe càng khâm phục Thái Tử vô cùng.

 

Thái Tử nhìn người xa lạ nói:

   Ở đời không ai là không chết, dù cho là Vua hay dân, giàu hay nghèo, không chết lúc trẻ thời cũng chết về già, cái chết sẽ nhất định đến với con người sớm hay muộn. Mà chết thời không ai mang theo được gì, kể cả vua chúa nói gì là dân. Nói tốm lại cuộc sống trần gian chỉ là cuộc sống giả tạm tu luyện tiến hóa linh hồn mà thôi. Nhưng khi chết đi không ai mang theo châu báu ngọc ngà mà chỉ mang theo một thứ đó là nghiệp ác hay nghiệp thiện, để rồi nhận lấy quả báo vui hay khổ, lên thiên đàng hay xuống địa ngục.

 

   Vì quá hiểu rõ như vậy, nên tôi đã chọn cho mình một hướng đi. Hướng đi của bậc giác ngộ, sống chết đều có nghĩa. Sống có giá trị là sống vì nhân loại, sống cho nòi giống, sống vì non sông Tổ Quốc. Chết có ý nghĩa là lối chết bất tử. Chết vinh quang mãi mãi thường còn là chết vì Chính Nghĩa, chết vì nhân loại. Nếu không tìm cho mình lối chết bất tử như thế, thời cái chết có ý nghĩa gì. Lối sống vô vị cái chết trống rổng. Nói đến cái chết thời không ai tránh khỏi, không chết trẻ thời cũng chết về già. Vô thường sẽ cướp đi sinh mạng của chúng ta, cái chết tự nhiên theo qui luật của Tạo Hóa. Vì quá hiểu rõ như vậy nên tôi đã chọn cho mình một hướng đi. Chết, sống đều có ý nghĩa của bật giác ngộ. Làm Quốc Vương hay không làm Quốc Vương cũng thế mà thôi.

 

Người xa lạ càng nghe Thái Tử thuyết giáo càng kinh ngạc trước sự hiểu biết phi phàm của Thái Tử  có thể nói là chưa từng thấy chưa từng nghe.

 

Thái Tử nói:

   Nếu nói chết là hết, thời ai ai cũng như nhau, thiện ác theo đó cũng không còn. Nhưng chết mà không hết chỉ mất đi thể xác, còn Linh Hồn thời sống mãi, thời sao đây ? Không lẽ mang theo cả gánh hành lý tội ác xuống địa ngục. Sống trong đày đọa, thời sống đau khổ chớ có ý nghĩa gì. Sống trong tù đày, sống trong sự tra tấn tàn bạo của Quỷ dữ. Sống trong đói khác đau đớn, sống trên Đao Búa và Chảo dầu, đó là chưa nói đến sống trong hỏa ngục. Thời Linh Hồn thống khổ hơn nữa. Nhưng từ xưa tới nay những bậc tu tiên đắc đạo hiểu rõ chết không phải là hết.

 

   Chết mà không hết chỉ mất đi các xác phàm tục. Còn Linh Hồn thời sống mãi, thời sống Thiện sống Ác có hai kết quả khác nhau. Sống Thiện có kết quả tốt, Sống Ác có kết quả xấu. Sống Thiện thời Linh Hồn được siêu sanh về Trời, hưởng phước báo vô tận muốn gì được nấy. Sống trong cảnh giới Đại Đồng, các quyền con người được thể hiện đầy đủ như: Quyền tự do tự tại, quyền mưu cầu hạnh phúc muốn gì được nấy, không có thống trị, cai trị, sống trong Bình Đẳng Tôn Trọng lẫn nhau, sống trong hạnh phúc. Sống Ác có kết quả xấu, khi thể xác phàm tục mất, Linh Hồn liền sa đọa vào âm phủ, khi ta muốn ăn năng hối cải thời cũng đã quá muộn.  Vì vậy tôi lúc nào cũng loại bỏ sai lầm luôn luôn hướng tới Chân Thiện Mỹ. Loại bỏ quét sạch dơ bẩn rác rưởi tội lỗi trong tâm hồn, phát huy cuộc sống Đạo Đức vì nhân loại mà hy sinh, vì nhân loại mà cống hiến đời mình. Khi tôi trở thành Quốc Vương, thời Quyền sống, Quyền Tự Do, Quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi con người được tôn trọng, được bảo vệ không một ai có quyền xâm phạm, khi họ mưu cầu tư lợi đúng Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Bằng văn minh là điều trên hết. Thương yêu dân chính là thương yêu bản thân mình, oán lấy ân mà trả, lòng tha thứ đối với kẻ phạm tội giáo dục Đạo Đức thường xuyên đối với dân chúng là giảm bớt hình phạt nhà tù, đó là con đường Chân Chính, cánh cửa Địa Ngục khép lại, cánh cửa Thiên Đàng mở ra, đưa nhân loại đến Chân Trời hạnh phúc.

 

   Sở dĩ con người luôn luôn lầm lỗi là vì con người một phần vì trình độ dân trí còn thấp. Một phần chưa gặp được Chánh Giáo không có Kim chỉ Nam. Lại thường đối mặt với bao cuộc sống gian trá đầy cạm bẫy, đầy chông gai. Dần dần con người trở nên tiêu cực, chỉ biết nghĩ cho mình còn Thiên Hạ thời sao cũng mặc, không mấy quan tâm. Đâu đó cũng là một sự sai lầm trong cuộc sống. Thật ra con người khó sống riêng lẻ được mà phải sống chung cùng nhau, chung gánh vác xã hội. Gánh trách nhiệm bảo tồn cuộc sống cộng đồng. Mình sống vì người, người sống vì mình. Tất cả từ Vua cho tới dân ai ai cũng sống gắng bó cùng nhau, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức đó mới là cuộc sống có trình độ dân trí cao. Lối sống lấy dân làm gốc Dân Chủ Công Bằng văn minh. Muốn có một cuộc sống bình yên hạnh phúc mà xung quanh ta với bao kẻ thù chống phá, bao kẻ rình rập trộm cướp, gian ác thời cuộc sống bình yên hạnh phúc sao được.

 

   Vậy mới biết người nông dân ngủ yên không lo đói là kho lúa thóc vẫn còn đầy. Làm Quốc Vương mà ngủ yên trên cung vàng, Điện Ngọc là nhờ dân làm lành hướng Thiện. Xung quanh Quốc Vương là các bật trung Thần, hết lòng vì Quốc Vương. Hết lòng chăm lo cho dân, cho nước.

 

   Muốn có một gia đình hạnh phúc thật sự, thời làm Cha Mẹ phải có Đạo Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, để cho con cái noi theo.

 

   Muốn có một Quốc Gia yên ổn Thái Bình Thịnh Trị, thời phải biết dạy dân sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức hướng về Cội Nguồn. Dân tự nuôi dân bằng vật chất, còn nhà nước nuôi dân bằng truyền thống văn hóa Chính Nghĩa, nuôi lớn Tinh Thần Dân Tộc, nuôi lớn trình độ dân trí, để dân tự làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức cũng như truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn. Dân làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Đức làm chủ Văn Hóa Cội Nguồn, thời Quốc Vương được ngủ yên, sống yên không có một đất nào xâm lược nổi, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Một vị Quốc Vương anh minh như thế, thời còn lo gì không có Độc Lập Tự Do, dân giàu nước mạnh, nhất định Thiên Đàng Cực Lạc sẽ ở ngay chốn nhân gian.

 

   Còn làm vị Quốc Vương chỉ biết lo cũng cố tu bổ cho quyền lực của mình, vây cánh của mình, mới suy nghĩ cho là trúng nhưng đó là một sự sai lầm lớn. Một Quốc Gia hùng mạnh phải nói toàn dân tộc nước đó phải nhận thức được, cái chung phải đứng trên cái riêng. Non Sông Tổ Quốc, truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn coi trọng hơn bản thân, tư nhân của mình.

 

   Cái chung ở đây không phải là cái chung của Thần Giáo bè phái giáo phái thời phong kiến Thần Giáo hiện nay, phong kiến Địa Chủ, phong kiến tiến bộ Chế Độ. Nói chung là ở các thời phong kiến. Đứng đầu là Đế, Vương, Vua, Chúa của các Họ Tộc. Phần nhiều là do tranh giành quyền lực, được xưng Vua, thua là giặc. Cái chung ở đây là cái chung bảo vệ quyền con người ai cũng như ai, chung nhau gìn giử Tổ Quốc, chung nhau phát triển xã hội. Những người có công lớn được sự tín nhiệm muôn dân tôn phong suy Tôn lên, tất cả muôn dân phải sống dưới cái chung, trong đó có cái riêng của chính mình. Thống trị Độc Tài Độc Trị của Đế, Vương, Vua, thời nay thời cuộc sống không bao giờ thoát khổ được, vì sống dưới chế độ Độc Trị hà khắc khốn khổ.

 

   Còn cái chung ở đây là của chung toàn dân tộc. Chung nhà nước, chung Hiến Pháp, chung Luật Pháp, chung Đạo Pháp công bằng bình đẳng.  Không có chế Độ Độc Tài cai trị, mà toàn dân tộc sống chung nhau trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Quốc Đạo Văn Hóa truyền thống Chính Nghĩa Tinh Hoa xã hội con người tiến bộ. Non Sông Tổ Quốc, Hiến Pháp, Luật Pháp, Văn Hóa truyền thống Dân Tộc không của riêng ai, mà của toàn dân tộc. Toàn dân là Chủ. Vì thế một đất nước hùng mạnh là một đất nước toàn dân là Chủ, chung nhau bảo vệ Tổ Quốc, chung nhau bảo vệ Hiến Pháp. Luật Pháp, truyền thống Văn Hóa Cội Nguồn. Một đất nước có trình độ dân trí cao văn minh như vậy. Thời người đứng đầu nhà nước đó phải là người gương mẫu về mọi mặt, do dân suy tôn tính nhiệm mà ra. Thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý xã hội.

 

   Dưới các triều Đại phong kiến độc tài độc trị. Dù là phong kiến Địa Chủ, phong kiến Thần Giáo, phong kiến Chế Độ, thời nào cũng tìm ẩn tham quan quá lớn. Thi nhau mà vơ mà vét làm hại Non Sông Tổ Quốc, làm hại dân tộc, nội bộ chiến tranh truyền miên không dứt. Nồi da nấu thịt thê thảm vô cùng, thời trước thi nhau loạn thời này cũng thế. Văn Hóa đồi trị thi nhau mà ra đời làm hại đến sự phát triển xã hội. Đưa đẩy dân tộc vào cảnh tối tăm khó mà vươn lên một tầm cao mới.

 

   Nói tốm lại cái chung đưa dân tộc đi lên tiến tới dân giàu nước mạnh không phải là cái chung của bè phái, đạo phái, giáo phái, độc tài độc trị nào. Mà là cái chung sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính, công bằng bình đẳng xã hội.

 

   Vậy mới biết cành lá khô héo là do gốc mục nát hỏng, sông cạn kiệt là do nguồn cạn kiệt. Nhìn một Dân Tộc hùng mạnh, cành lá sum sê, thời cũng biết Dân Tộc đó có gốc gác vững vàng, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính, không phải tự nhiên mà có càng không thể dựa trên thể chế độc tài độc trị mà ra. Mà là Tinh Hoa Truyền thống được chiết lọc nguyện vọng chân chính của con người. Không phải dựa trên cửa quyền truyền thống của Chế Độ độc tài độc trị mà có. Mà Là Tinh mật ngọt đồng nhất nguyện vọng của con người, nguyện vọng ấy ví như mật ngọt của muôn loài hoa không có sự khác biệt nhau, càng không có sự chống bán nhau. Ai cũng thấy quyền lợi cái chung ấy chính là quyền lợi của chính mình. tinh Hoa Hiến Pháp. Tinh Hoa Luật Pháp. Tinh Hoa Đạo Pháp là cái chung mơ ước của mỗi một con người, bảo vệ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp cái chung ấy, là bảo vệ sự sống sức mạnh phát triển của toàn dân tộc. Mà mỗi dân tộc điều chung mơ ước. Đó là quyền con người, những quyền căn bản của cuộc sống. Những Quyền mà Tạo Hóa đã ban cho, những quyền bất khả xâm phạm. Tinh Hoa Hiến Pháp. Tinh Hoa Luật Pháp. Tinh Hoa Đạo Pháp trở thành Truyền thống Tinh Hoa anh linh dân tộc Văn Minh có cả sức mạnh Hồn Thiên Dân Tộc, khí Thiên Sông Núi. Hàng nghìn nghìn năm, cho đến hàng triệu năm. Dòng lịch sử truyền thống tuôn trào mãi làm cho tinh thần Dân Tộc luôn tràng trề niềm khiêu hãnh đầy sức sống. Hết thế hệ này đến thế hệ khác liên miên bất tận không dứt.

 

   Nhìn một Dân Tộc luôn luôn bị nô lệ, cành lá héo tàn, thời cũng biết Dân Tộc đó gốc gác có vấn đề. Hiến Pháp, Luật Phát, Văn Hóa truyền thống, không phải là Tinh Hoa Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Văn Hóa truyền thống anh linh lâu đời. Mà chỉ là những giáo điều Chính Trị, thể chế trói chặt quyền con người thống Trị của Chế Độ đó mà thôi. Chính những đất nước như thế tự mất đi cái gốc Đồ Sộ nền tản lâu đời đoàn kết của nó mà cũng mất luôn sức mạnh của Hồn Thiên Dân Tộc. Khí Thiên sông núi khó mà bền vững Độc Lập lâu dài. Vì chính độc tài độc trị nó tự hủy diệt lấy nó. Để rồi sanh ra chế độ độc tài độc trị khác. Diệt Sói rồi trở thành Sói. Cứ lẫn quẩn mãi trong cảnh giới thắng là vua thua là giặc xem đi xét lại Giặc với Vua cũng cùng một thứ.

 

   Một Dân Tộc có tương lai rộng mở là một dân tộc có tầm nhìn xa rộng lớn, có kiến thức sâu rộng bỏ những tập tục lạc hậu, gốp nhặt Tinh Hoa nhân loại. Làm hành trang cho những bước tiến của mình. Một đất nước dân giàu nước mạnh, không có con đường nào khác hơn là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp là vua, trở thành nhà nước Pháp Quyền, thật sự của dân, do dân, vì dân. vì dân. Nói chung một cách dễ hiểu là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Tam Quyền Phân Lập, Tự Kiểm Soát Nhau, Bảo Vệ Nhau, Tồn Tại Mãi Mãi, không già không trẻ cứ thế mà đi vào cuộc sống.  Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp của dân, bảo vệ dân, để cho dân tự do vươn lên phát triển. Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc phát triển vươn lên một cách mạnh mẽ. Nhà nước ủng hộ bảo vệ, làm trọng tài cho cuộc phát triển về mọi mặt, mọi hoạt động của toàn dân đi lên của xã hội tiến tới dân giàu nước mạnh.

 

   Một đất nước có nền Độc Lập lâu đời. Thời đất nước đó có nền Văn Hóa  Quốc Đạo Dân Tộc, nền tản vững chắc Độc Lập lâu dài. Một đất nước có nền Văn Hóa Quốc Đạo thời đất nước đó nhất định độc lập bình yên lâu dài. Quốc Đạo không phải là dựa vào một giáo đạo nào lấy đó làm Quốc Đạo. MÀ LÀ ĐẠO PHÁP KHAI DỰNG LÊN ĐẤT NƯỚC, KHAI DỰNG LÊN DÂN TỘC không được nhầm lẫn Tôn Giáo, Đạo Giáo, Thần Giáo là nền Quốc Đạo. Mà phải là Đạo Pháp khai dựng lên dân tộc, khai dựng lên non sông Tổ Quốc. Quốc Đạo luôn đi đôi với truyền thống anh linh dân tộc luôn luôn đem truyền thống tốt đẹp ấy truyền dạy cho con cháu, thắp sáng mãi tinh thần yêu nước, yêu truyền thống tốt đẹp của mình.

 

   Cha Mẹ có Đạo là tấm gương sáng cho con cái noi theo. Vương, Quan có Đạo thời trị dân không cần động đến gươm, đao, giáo, mác mà quân dân vẫn tuân theo răm rắp. Vậy mới biết Văn Hóa truyền thống Đạo pháp dân tộc là phép mầu hữu hiệu, uốn nén dân chúng theo đúng kim chỉ nam, không cần đến bạo lực còn trên cả đòn roi gươm, đao, giáo, mác tầm thường.

 

   Một đất nước có Nền Văn Hiến Quốc Đạo. Vương với Dân cùng hội cùng thuyền, xã hội càng thêm ấm no hạnh phúc độc lập lâu dài.

 

Người khách lạ càng nghe Thái Tử lập luận càng sững sốt vô cùng mới lạ chưa nghe thấy bao giờ  liền chấp tay thưa hỏi:

   Thưa Thái Tử, Văn Hóa Quốc Đạo là giống gì mà nhiệm mầu uy lực như vậy?

 

Thái Tử đáp:

   Văn Hóa Quốc Đạo không là giống gì cả, mà chỉ là con đường rộng lớn đầy hoa thơm quả ngọt, không chông gai con đường đoàn kết Đại Đồng Bình Đẳng. Con đường yêu nước thương dân hay nói một cách dễ hiểu Văn Hóa Quốc Đạo là con đường Chính Nghĩa, con đường hòa hợp các Dân Tộc. Con đường Đạo Đức làm cho bản thân, gia đình, xã hội, đất nước Tổ Quốc càng ngày càng xuân. Nhân loại đi theo Văn Hóa Quốc Đạo là đi đến chân trời hạnh phúc. Nhưng Đạo thời có hai, Tiểu Đạo và Đại Đạo.

 

   Tiểu Đạo là con đường hẹp và ngắn lại nhiều chông gai, đó là con đường đấu tranh giai cấp, con đường mạnh được yếu thua nhiều chông gai, con đường Phi Chính Trị, Phi Chính Nghĩa con đường tranh bá xưng hùng mạnh được yếu thua, thắng là vua thua cho là giặc, đổi ngôi, đổi chủ như thay áo, con đường hận thù chồng chất.

 

   Đại Đạo là con đường lớn con đường dựa trên căn bản quyền con người, Thấp thời Nhân Quyền cao thời Thiên Quyền con đường tối cao của cái chung, trong đó có cái riêng của mỗi một con người Con đường Đại Đạo xuyên suốt lịch sử quá khứ vị lai. Cũng như xuyê từ Địa Ngục cho tới tận Thiên Đàng. Con đường Thiên Quyền Nhân Chủ Đại Đồng Bình Đẳng. Con đường làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ khoa học, làm chủ Non Sông Tổ Quốc, làm chủ vũ trụ, làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc. Ai đi trên con đường Đại Đạo, mỗi bước chân là mỗi bước hạnh phúc. Vì con đường Đại Đạo là con đường từ bi bác ái nhân nghĩa, con đường giải thoát tội lỗi, giải thoát nô lệ, giải thoát sự ngu muội của chính bản thân mình. Trở thành người thông thái Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa sống tự do và làm chủ vũ trụ, làm chủ Thiên Đàng Cực Lạc.

 

Người khách lạ hỏi:

   Thưa Thái Tử, Đạo thời có hai, Tà Đạo và Chánh Đạo làm sao ta phân biệt nhận biết?

 

Thái Tử đáp:

   Đạo là con đường đi, đường hướng, đường lối nhưng Tà Đạo và Chánh Đạo thời khác nhau rất xa. Thiện ác hai nẻo như Thiên Đàng và Địa Ngục.

 

Thái Tử nói:

   Con đường nào dẫn Thiên Hạ nhân loại đến chiến tranh, tranh giành quyền lực, chiến tranh xâm lược, chiến tranh bè phái, giáo phái đẩm máu nhất là đẩm máu nồi da nấu thịt, tệ hại hơn nữa là đẩm máu trong Họ Tộc. Trong tình thương ruột thịt, giết hại người thân lập công bè phái giáo phái cũng chỉ vì phục vụ cho tranh bá quyền lực, lên quan lên chức. Tà Đạo là con đường tranh bá quyền lực đấu tranh giai cấp triệt hạ thôn tính lẫn nhau dẫn dắc nhân loại đi trên con đường gươm đao giáo mác chiến tranh, tranh giành được là Vua thua là giặc. Thật ra giặc và Vua chẳng khác chi nhau, tham lam tật xấu, gian xảo ích kỷ. chỉ biết quyền lực Danh và Lợi dẫn đến tàn sát lẫn nhau, kẻ thắng thống trị, người thua bị trị, nô lệ, tù đày hoặc giết đi.

 

   Đã đi trên con đường đấu tranh giai cấp gặp phải những tay hôn Quân tàn bạo. Bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu thời không nói cũng biết cuộc sống muôn dân vô cùng thê thảm. Xem thường luật nhân quả. Cống Cao Ngạo Mạng. Liêm Sỉ chẳng cần, thêu dệt lên bao tà thuyết hoang tưởng, không thực tế. Tay cứ vấy máu mà miệng hô hòa bình, tham lam vơ vét của công, lấy sạch của dân, ngoài miệng thời hô lo cho dân cho nước. Nhà tù cứ nới rộng, Đao Búa thêm mài bén ngót tàn bạo hết ngõ nói. Oán thêm oán, hận thêm hận, thù chồng thù như núi như non.

 

   Tà Đạo là con đường dẫn đến mọi thói hư tật xấu. Sung sướng chỉ đem lại cho một nhóm người, còn toàn bộ là khốn khổ. Con đường tươi sáng đâu không thấy mà thấy trước mắt chỉ là vực thẳm tối đen, đấu tranh tàn sát nhau. Tìm hạnh phúc, hạnh phúc đâu không thấy mà thấy cảnh Địa Ngục nhà tù bày ngay trước mắt.

 

   Còn Chánh Đạo là con đường rộng lớn Thiên Quyền Nhân Chủ cao hơn Nhân Quyên Dân Chủ mấy bậc con đường hiện thân Hiến Pháp, Luật Pháp,Đạo Pháp, Tự Do Công Bằng Bình Đẳng bỏ Ác hành Thiện. Con đường Chân Thiện Mỹ  dẫn tới Thái Bình An Lạc. Con đường dẫn dắc nhân loại tiến tới dân giàu nước mạnh không có sự hận thù mà chỉ có đoàn kết yêu thương. Chánh Đạo là con đường vì dân vì nước vì Cội Nguồn. Chánh Đạo là hiện thân của Hiến Pháp Chính Nghĩa, Luật Pháp Chính Nghĩa, Công Lý Chính Nghĩa, Đạo Đức Chính Nghĩa. Chánh Đạo là con đường rộng lớn, còn đường Đại Đồng Bình Đẳng (Chủ Nghĩa Đại Đồng chủ nghĩa Thiên Quyền, Nhân Quyền xã hội). Không phải giáo phái, bè phái, tôn giáo không sống theo giáo điều mà chỉ sống theo Hiến Pháp Chân Chính. Luật Pháp Chân Chính. Đạo Pháp chân chính Công bằng văn minh. Chánh Đạo là con đường không đi trên sự đau khổ của nhân loại, mà đi trên con đường cứu khổ ban vui nhân loại. Con đường Chánh Đạo là con đường nới rộng vòng tay đoàn kết, lá lành đùm bọc lá rách. Người giàu sang sẽ bớt cho người nghèo, người mạnh thương người tàn tật. Chánh Đạo chính là Chính Nghĩa, mà Chính Nghĩa chính là lòng nhân Đạo của con người.

- Con đường Tà Đạo là phục vụ cho lòng Tà Đạo Bất Chính.

- Con đường Chánh Đạo là con đường đoàn kết, hòa hợp dân tộc ung đúc lên đạo đức Chính Nghĩa.

- Con đường Tà Đạo chủ ý tranh quyền  đoạt lợi.

- Con đường Chánh Đạo chủ thuyết cứu khổ tôn trọng lẫn nhau.

 

   Chủ quyền của Tà Đạo là thống trị, cửa quyền ác bá, chiến tranh và hận thù, máu trả bằng máu, thịt đè lên thịt, bóc lột dã man.

 

   Chủ ý của Chánh Đạo là vì người không vì mình, nhân loại là anh em, không phân biệt màu da chủng tộc, tất cả đều là anh em một nhà thương yêu đùm bọc lẫn nhau lá lành đùm lá rách .

 

   Chủ thuyết của Tà Giáo Tà Đạo là Bè Phái, Giáo Phái. Đối lập nhau và luôn luôn mâu thuẩn với nhau. Thậm chí còn đã kích nhau.

 

   Chủ thuyết của Chánh Đạo là chủ nghĩa Đại Đồng Công Bằng bình đẳng. Trên con đường Thánh Thiện Tôn Trọng Quyền con người ý tưởng khoa học siêu phàm. Sống thực tế loại bỏ những gì lạc hậu tiến tới văn minh tinh thần lẫn vật chất, làm chủ chính nghĩa. Lấp con đường Địa Ngục, mở rộng cửa Trời

 

   Vì vậy con đường Chánh Đạo rất khó đi cho những người tâm còn nhỏ hẹp. Rất dễ đi với những con người có Đức. Tấm lòng rộng mở. Sống vì người hơn là vì mình.

 

   Tà Đạo là con đường hẹp, đầy dẫy chông gai. Con đường dẫn tới chiến tranh, dẫn tới địa ngục, âm phủ. Mỗi bước chân đi trên con đường Tà Đạo là mỗi bước chân lo âu sợ hãi. Cuối cùng cũng dẫn đến cảnh trầm luân đọa lạc.

 

   Tà Đạo và Chánh Đạo, hai con đường khác nhau quá rõ, trắng với đen khó mà lẫn lộn nhau, đối với người sáng tâm sáng mắt. Còn tâm u minh người mù thời khó mà nhận ra.

 

Nghe Thái Tử lập luận giảng thuyết Đạo Pháp kỳ lạ. Người khách lạ hết kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Chính Ta ở nơi Hạ Thiên Vũ Trụ cũng không nghe thấy đạo lý như thế nầy huống chi là chốn nhân gian. Người xa lạ nghĩ  ý tưởng Thái Tử vô cùng xa lạ. Có thể nói sự hiểu biết của Thái Tử, theo trình độ dân trí hiện nay thời khó mà hiểu được một lời của Thái Tử nói chi đến nhiều lời Ngay cả như ta đây là Thiên Thần trí tuệ mà nghe càng lạ lẩm, cao xa khó hiểu huống chi là người phạm tục ý thức lạc hậu, mê tín dị đoan sâu dày.

 

Thì ra đây người khách lạ không mời mà đến chính là Thiên Thần Trí Tuệ ở trên sáu tần Trời Cõi Dục, xuống chốn nhân gian thử Tài năng trí huệ Thái Tử, cũng như sự hiểu biết của Thái Tử. Thiên Thần Trí Huệ ở cõi Trời hạ giới hàng nghìn nghìn năm, chưa nghe thấy ai giảng thuyết thế này. Không lẽ đây là Vương Đạo mà Đức Cha Trời đã dạy cho Đức Chí  Tôn.

 

Thiên Thần Trí Huệ hỏi:

   Thưa Thái Tử. Hiện nay chốn nhân gian, phương Đông Thần Giáo thịnh hành như thờ lửa, Thần lửa, thờ Thần mặt trời, thờ Thần núi, Thần sông, Thần biển, Thần mưa, Thần sấm sét v.v… Phương Tây thời thịnh hành phù thủy, thờ ma thuật, quỉ thuật, yêu thuật. Đại đa số các nước sống theo giáo điều của Thần giáo, điều lệ của Phù Thủy. Không thấy đất nước nào sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp cả. Thái Tử tìm ở đâu ra Đại Đạo, Thiên Đạo, Cội Nguồn, lập lên Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, thay cho giáo điều và điều lệ đã ăn sâu vào con người hàng nghìn nghìn năm ?

 

Thái Tử đáp:

   Đây là một điều rất khó nhưng không phải vì sự khó ấy mà tôi sẽ bỏ qua. Thiên Đạo Cội Nguồn vũ trụ sẽ không ở đâu xa, có thể ở ngay trước mắt. Xét đi xét lại tất cả là vũ trụ, không có chổ nào là không phải vũ trụ. Thậm chí Linh Hồn Thể Xác chúng ta cũng là thành viên vũ trụ. Chẳng hạn như Nước và bọt Nước. Gốc của các bọt Nước là Nước, tuy hai mà một, bọt Nước cũng chính là Nước, tuy một mà hai vì bọt Nước có hình dạng còn Nước thời không có hình dạng nhất định, ở trong ống thời hình ống, ở trong lu thời hình lu, ở trong không gian thời hình không gian.

 

   Có thể nói muốn tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ ví như bọt Nước tìm về Cội Nước. Muốn làm được như vậy thời phải làm chủ cho được Tiểu Linh Hồn bọt Nước của chính mình hướng về Cội Nguồn, hội nhập vào Cội Nguồn Đại Linh Hồn vũ trụ, ví như bọt nước trở lại là nước. Thời sẽ tìm ra Đại Đạo Cội Nguồn vũ trụ, lập lên Hiến Pháp. Luật Pháp, Đạo Pháp khai lập lên đất nước mới Văn Hóa Cội Nguồn sẽ trở thành nền Quốc Đạo dân tộc. Làm lợi ích cho toàn nhân loại.

 

Thiên Thần trí tuệ mừng rở vô cùng như ngộ được điều gì, liền vái lạy Thái Tử nói:

   Thái Tử là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần mới có trí huệ vô tận thâm thâm vi diệu như vậy. Đấng Cứu Thế Đã Ra Đời hồng phúc thay cho nhân loại nhân gian, nói xong Thiên Thần biến mất.

 

Sự xuất hiện và biến mất của Thiên Thần Trí Huệ đã đánh thức Thái Tử một điều hết sức quan trọng mà Thái Tử cần phải nắm bắt. Đó là Thần Thông, có Đức có Trí nhưng thiếu đi Thần Thông thời khó mà vượt qua bao chướng ngại, trên con đường tìm ra Thiên Đạo Cội Nguồn. Và thật vậy Thiên Đạo Cội Nguồn Tiên Rồng là Đại Đạo vũ trụ, Tam Bảo Chí Tôn.

1. Pháp Tạng

2. Hiến Tạng

3 Luật Tạng

4 Thiên Tạng

5 Mật Tạng

 

Thời con đường Công lý Bình Đẳng Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp, Luật Pháp,  Đạo Pháp vũ trụ ra đời. Văn Hóa Chính Nghĩa tối cao vũ trụ, con đường Đại Đạo xuyên qua tư tưởng, xuyên qua không gian, thời gian, xuyên qua quá khứ vị lai, con đường làm chủ tất cả. Muốn tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn ngoài Hùng Bi Trí Đức còn phải đạt đến cảnh giới tối cao, Thần Thông pháp thuật, Thần Thông trí huệ, thời mới tìm ra Đại Đạo Văn Hóa Cội Nguồn. Thái Tử làm sao để tìm ra Đại Đạo vũ trụ Chủ Nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội Nguồn. Chúng ta hãy đọc tiếp những đoạn Kinh văn sau.

*********

 

Hết phần 4 chương 5 mời xem tiếp phần 5 chương 5 Long Hoa Mật Tạng. Những gì bí mật nơi vũ trụ lần lần hé lộ, phải nói là bộ kinh quý hiếm không gì quý bằng. Những ai có Bộ Kinh nầy trong tay hàng ngày đọc xem nghiên cứu, thời phước đức trí huệ của những người nầy không sao luận bàn cho hết được, và tương lai của những người nầy cũng không sao lường hết được. Nếu ai gặp được những người nầy nên cung kính cúng dường, tán thán ca ngợi. Thời muôn vạn kiếp sau không những đứng đầu đại chúng cũng như giàu sang tột bực.

Long Hoa Mật Tạng tột siêu kỳ

Cúng dường in ấn truyền bá đi

Phước lành muôn ức không thể đếm

Gia đình con cái rạng tông ti

Chuyển đổi mạng căn vào Đức Thánh

Về trời hưởng phước mãi thường khi

Chỉ cầm một niệm tin ca ngợi

Cũng đặng về trời chẳng khó chi.

 

 

 

CHƯƠNG 5

 

PHẦN 5

 

CHÌA KHÓA VẠN NĂNG.

 

Thái Tử nghĩ không phải chỉ làm Quốc Vương ngự trên Ngai Vàng Điện Ngọc mới là uy quyền cao cả. Đó chỉ là uy quyền cao cả tạm thời cuộc đời ngắn ngủi sống trên vật chất cung vàng điện ngọc chớp mắt đã qua, mọi chuyện rồi trở về con số không, cái không trống rỗng chẳng có ý nghĩa gì. Chỉ có sự nghiệp Đạo Đức sự nghiệp tận độ nhân loại cứu linh hồn nhân loại về trời. Mới là sự nghiệp vĩ Đại vĩnh cửu, sự nghiệp bất tử không bao giờ mất mãi mãi trường tồn. Chỉ có tìm ra Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo vũ trụ, đúc kết Tinh Hoa Chân Lý, vạch ra đường hướng đúng đắn chân thiện, để cho nhân loại Thiên Hạ Đồng Bào đi theo làm theo tìm đến cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc ở các cõi Trời Thiên Đàng Cực Lạc. Giải thoát sanh tử đi đến cảnh bất tử. Thời đó mới là việc làm cao cả, sự nghiệp vĩ đại, không có một sự nghiệp nào sánh bằng. Ngay cả những Quốc Vương giàu có nhất thế giới, hùng mạnh nhất thế giới cũng không sánh kịp bằng mảnh lông sợi tóc của sự nghiệp Đạo Đức Văn Hóa Cội Nguồn.

 

Thái Tử phát họa ý tưởng rồi đưa đến một kết luận quyết định. Quyết tìm ra Đại Đạo mở đường dìu dắt nhân loại, đưa xã hội nhân loại tiến lên, công bằng văn minh, văn minh vật chất lẫn văn minh tinh thần. Tất cả sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý xã hội, ai cũng được sống trong Công Bằng Bình Đẳng tiến tới dân giàu nước mạnh, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, làm chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ vũ trụ.

 

Khi con người mới sanh ra, thời Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho con người nhiều thứ quyền và làm chủ tất cả. Trong các thứ quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người trong đó có Quyền Sống, Quyền Độc Lập, Quyền Tự Do, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, nói chung là Quyền con người (Nhân Quyền). Con người là chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý vũ trụ, tất cả nhân loại sống trong xã hội công bằng văn minh. Cạnh tranh lành mạnh tiến hóa đi lên mở ra Xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc ngay nơi trần thế. Con người là tiểu thiên vũ trụ. Tổ Tiên khai lập con người. Thời Tổ Tiên Khai Hóa cũng đã ban cho con người kho tàng trí huệ. Cũng như chiếc chìa khóa vạn năng ấy để mở kho tàn trí huệ, chiếc chìa khóa vạn năng ấy không đâu xa đó là chìa khóa Tiểu Linh Hồn chúng ta vậy. Chúng ta sẽ dùng nó mở cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ, tiến tới làm chủ tất cả, cũng như các Quyền mà Tổ Tiên đã ban cho mỗi con người.  Để mở tung cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ làm chủ kho tàng kiến thức vũ trụ. Thái Tử suy gẩm lần lần tháo gở mắt gút rắc rối ngăn cản của vô thường và vô minh. Lần tiến tới mục đích cuối cùng là Đại giác ngộ Chánh Đẳng, Chánh giác.

 

Thái Tử là bậc Đại thông minh, nếu không nắm bắt rõ Linh Hồn của chính mình, thời không bao giờ tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ, Đại Linh Hồn Khai Hóa Tổ Tiên. Bản thể Linh giác tối cao vũ trụ, nếu chỉ hướng ngoại tìm kiếm trong thế giới vật chất dù cho tìm khắp trong vật chất, khắp thế giới vũ trụ cũng không tìm thấy bản thể Linh giác tối cao của vũ trụ, kho tàng tri thức của tâm Linh. Muốn tìm thấy Đại Linh Hồn vũ trụ, trước hết phải tìm thấy nắm bắt Tiểu Linh Hồn của chính mình và nó tự làm chủ lấy nó và dùng nó để mở ra cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ và chỉ có bọt Nước mới tìm ra bản thể của Nước.

 

Lại nữa Linh Hồn là vật thể siêu Linh khó mà nắm bắt, khó mà hàng phục, tìm tàng ẩn chứa muôn vạn Chủng Tánh, của muôn cảnh giới, từ hiện tại đến quá khứ. Cảnh giới sắc từ Linh giác sắc không hiện ra. Cũng giống như cảnh giới của Điện hiện lên màng ảnh ti vi, thật ra Điện vốn không, không có cảnh giới đó. Nếu chúng ta tự hiểu Linh Hồn của chúng ta. Thời chúng ta mới làm chủ chiếc chìa khóa vạn năng vũ trụ. Khám phá bí mật vũ trụ, tiến tới làm chủ vũ trụ.

1: Tánh không tánh: Đó là thật tánh Linh Hồn chúng ta, từ tánh không này Linh Hồn của chúng ta tạo khởi ra vô lượng tánh khác nhau như tánh tham, tánh sân, tánh si, tánh cống cao ngạo mạng, tánh nghi, tánh bảo thủ cho đến tánh Thiện tánh ác, nói chung là 8 muôn 4 nghìn tánh, nhưng tất cả chỉ là giả tánh, do tánh không tánh. Chân Tánh khởi tưởng tạo ra mà thôi. Như vậy nắm bắt thật tánh Linh Hồn, tánh không tánh. Làm chủ Chân Tánh của chính mình nó tự làm chủ lấy nó, trở thành tánh tự nhiên, tự nhiên tánh.

2: Tướng không tướng: Đó là thật tướng Linh Hồn chúng ta.

3: Sắc không sắc: Đó mới là thật sắc Linh Hồn chúng ta. Từ tướng không tướng: sắc không sắc này, khởi tưởng phân biệt hiện ra vô lượng cảnh giới trong Linh Hồn chúng ta, cảnh giới hửu sắc. Ví dụ như cảnh giới xã hội, cảnh giới chiến tranh, cảnh giới hòa bình, cảnh giới thiện, cảnh giới ác v.v... Như vậy nắm bắt thật tướng, thật sắc của Linh Hồn chúng ta là tự nó hiểu nó, không cảnh tướng là tướng thật tướng của mình, không sắc là thật sắc của mình. Tự không làm chủ lấy không, vắng lặng tự nhiên, tất cả cảnh giới trong tâm đều không thật, do tâm thức Linh Hồn khởi tướng tạo ra mà thôi.

4: Ý không ý: Đó mới là thật ý của Linh Hồn, trí không trí đó mới là thật trí của Linh Hồn, tự nó làm chủ ý không trí của nó, đi vào ý trí tự nhiên. Cảnh giới tối cao của người tu trên con đường Đại Giác Đại Ngộ, bước thẳng tới cánh cửa Cội Nguồn, bước vào kho tàng Như Lai Tạng tánh vũ trụ. Kho tàng tri thức vũ trụ.

5: Nhưng cánh cửa Cội Nguồn vũ trụ ấy không dễ gì mở ra được, phải phát Đại Nguyện rộng lớn mới mở nổi Như Đại Nguyện Di Đà, Quang Âm, Thích Ca, Địa Tạng v.v…

*********

 

Hết chương 5 phần 5 mời xem tiếp phần 1 chương 6 Long Hoa Mật Tạng Kinh, tối cao kinh giáo thượng thừa vũ trụ.

 

 

 

CHƯƠNG 6

 

PHẦN 1

 

SỰ THÔNG MINH KỲ LẠ CỦA THÁI TỬ

 

Thái Tử tuy còn rất trẻ nhưng thông minh kỳ lạ, dù cho Thần Thánh cũng không theo kịp. Thái Tử nghĩ nếu ta nắm bắt và làm chủ thật tánh, thật tướng, thật sắc, thật ý, thật trí của ta. Tánh chủ, Tướng chủ, Sắc chủ, Ý chủ, Trí chủ, tiến sâu vào con đường Tạo hóa, mở cánh cửa Cội Nguồn, tìm ra nguồn gốc Linh Hồn nhân loại, nguồn gốc Tiểu Linh Hồn vũ trụ, nguồn gốc thế giới vật chất, nguồn gốc vạn vật trong đó có nguồn gốc con người. Tìm ra Đại Đạo chủ nghĩa Đại Đồng Văn Hóa Cội Nguồn lưu truyền chốn nhân gian, đưa Nhân Loại qua sông mê đến bờ giác, sống mãi tự do nơi vũ trụ trên khắp cõi Thiên Đàng Cực Lạc. Có làm được như vậy thời cuộc sống mới có ý nghĩa, lối sống đỉnh cao của cuộc sống, sống có ích cho đời, cho người cho muôn sanh linh vạn vật.

 

Thái Tử tuy còn rất trẻ nhưng lại có tầm nhìn rộng lớn, thấy rõ tình hình thế giới hiện nay, nhất là tình hình ở phương Đông, các Vương Quốc, các Bộ Lạc, các Vương Tộc, người Kinh cũng như người Thượng, thường xảy ra xung đột, nước này với nước kia, Bộ Lạc này với Bộ Lạc nọ. Cảnh chiến tranh xung đột, cảnh chết chóc thảm thương xảy ra hằng ngày hằng tháng, hằng năm. Binh Đao máu lửa lan tràng khắp nơi, cảnh tù binh nô lệ xảy ra khắp châu lục, nhân dân sống dưới ách thống trị tàn bạo của những kẻ háo chiến, cướp mất quyền sống con người, nhất là cảnh dân chúng sống dưới ách thống trị hà khắc, không còn tính nhân Đạo, dữ hơn Lang Sói Hổ Báo.

 

Thời kỳ tranh giành thuộc địa càng ngày càng dữ, từ phong kiến Thần giáo biến thành phong Kiến Địa Chủ, sự tranh giành thuộc địa càng về sau càng tàn bạo bất chấp thủ đoạn lòng gian trá, mánh khóe, mưu mô xảo quyệt, đánh lừa để mưu lợi, nham hiểm vô cùng, biết lợi dụng danh từ Chính Nghĩa, che đậy sự gian trá tham lam ác độc của mình, bè phái mình. Sự gian trá che đậy nầy chỉ gạt được thành phần nhân loại kém hiểu biết, làm sao che mắt gạt được Thái Tử, vì Thái Tử là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống phàm trần. Nếu đất nước nào kém văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống, thời không tránh khỏi sự xâm lượt của nước khác, trở thành đất nước nô lệ.

 

Một đất nước mà vô Đạo, không có nền Hiến Pháp, Luật Pháp Đạo Pháp Chân Chính, chỉ sống theo giáo Điều và Điều lệ của các tổ chức thống trị bè phái, giáo phái, thời dân chúng đã coi như sống trong xã hội Địa Ngục trần gian.

 

Một đất nước có Nền Quốc Đạo, có Nền Hiến Pháp, Luật Pháp Đạo Pháp Chân Chính, thời dân chúng nương tựa vào Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thành nề, thành nếp, sức mạnh của một dân tộc đoàn kết, muôn hoa gốp phần làm đẹp mùa xuân, trăm sông nghìn suối đều chảy về biển cả, hòa mình vào dòng Đại Dương.

 

Chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đồng là chân lý biển cả Đại Dương, cho bao ý tưởng, lý tưởng đổ về, cho bao tổ chức, giáo phái, bè phái hòa mình vào đó trường tồn vĩnh viễn, cũng chỉ có Văn Hóa Cội Nguồn đưa nhân loại xích lại gần nhau, cùng nhau tiến tới xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc.

 

Sống có Chân lý, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp Chân Chính, thời bản thân, gia đình, xã hội, non sông Tổ Quốc như mùa xuân thắm tươi.

 

Sống không có Chân lý, không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Chính Nghĩa như cây thiếu nước, thiếu phân, thiếu ánh sáng mỗi ngày một héo tàn và cuối cùng bị hủy diệt.

 

Thái Tử càng ngày càng đắm chìm trong suy nghĩ, ít nói, ít cười thường ngồi một chỗ im lặng trầm tư.

 

Kinh Dương Vương và Vương Phi Thần Long Nữ thấy Thái Tử Hùng Lan ngày càng trầm tư như vậy, thời sinh ra lo lắng chẳng yên, liền triệu tập Vương Quan Đại Thần văn võ hỏi xem cao kiến, hầu tìm ra phương pháp làm cho Thái Tử vui.

 

Nước Xích Quỷ có vị Quốc Sư Thục Lục, có sáu biệt tài không ai có nổi.

1 là tài Quân sự

2 là tài Chính trị

3 là tài Văn thơ

4 là tài Võ thuật

5 là tài Hội họa

6 là tài Âm nhạc

 

Lại có nhiều kinh nghiệm về trị Quốc, ngoại giao với các nước láng giềng với tài ngoại giao này làm cho các Vương Quốc lân cận kính nể, được coi như là một Vương Quốc Xích Quỉ giàu có hùng mạnh nhất thời ấy. Danh tiếng Thục Lục lừng lẫy vang dội như sấm, các Vương Quan Đại Thần nghe nói có kế sách gì làm vui cho Thái Tử, tất cả đều lắc đầu, các Vương Quan Đại Thần còn lạ gì Thái Tử, một Thái Tử thông minh, hiểu biết ngoài sức tưởng tượng của họ, họ nhìn Thái Tử như một dãy núi cao mà họ không bao giờ vượt qua được, nói gì đến có kế sách làm vui cho Thái Tử.

 

Kinh Dương Vương nhìn thấy cảnh lắc đầu của các Vương Quan Đại Thần thời thở dài.

 

Quốc sư Thục Lục thấy thế bằng thưa rằng:

   Muôn tâu Quốc Vương, Thái Tử là bật Trời sanh xuống thế, thông minh tài trí khác thường, các nhân tài dị sĩ ở nước Xích Quỉ ta lần lượt không còn gì để truyền dạy Thái Tử được nữa. Nay Thần cũng muốn gốp chút công sức truyền bá chút kinh nghiệm cả đời mình cho Thái Tử.

 

Kinh Dương Vương nghe Quốc sư Thục Lục tâu thế thời lấy làm vui mừng vừa lòng lắm. Bằng giao Thái Tử cho Quốc sư dạy bảo.

*********

 

Hết phần 1 chương 6 mời xem tiếp phần 2 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Bộ kinh thượng thừa Mật Tạng vũ trụ.

Có duyên gặp được Mật Kinh

Coi như giải thoát ức nghìn họa căn

Nếu như truyền bá ấn in

Linh hồn chuyển hóa vượt lên đỉnh trời.

 

 

 

CHƯƠNG  6

 

PHẦN 2

 

CON TRỜI CÓ KHÁC

 

Nói về Quốc Sư Thục Lục dạy Thái Tử chưa đầy một năm Quốc sư Thục Lục phải chịu hết tài để mà dạy, để mà truyền Thái Tử học một biết mười biết trăm, thường làm cho Quốc sư phải nhiều phen sửng sốt, Quốc sư nghĩ con Trời có khác.

 

Hôm nay là một ngày đẹp trời, nhìn cảnh vật muôn hoa đua nở, Quốc sư nhìn Thái Tử rồi nói:

   Năm cũ sắp qua năm mới lại về, thời gian chẳng chờ đợi ai cứ lặng lẽ trôi qua nhanh chóng, con người chẳng mấy chốc rồi già, cuộc đời sống gỡi thát về, còn về đâu Thiên Đàng hay Địa Ngục thời chưa rõ. Thế mà lòng tham con người càng lúc càng bùng lớn lên, những nước lân ban chúng có ý dồm ngó mãi nước ta, có cơ hội là xâm lược.

 

Quốc sư nhìn Thái Tử rồi hỏi:

   Khi nước mất nhà tan Thái Tử làm sao để giành lại.

 

Thái Tử hết sức ngạc nhiên với câu hỏi kỳ lạ đó nhưng cũng trả lời:

   Quốc sư hỏi cho vui chứ làm gì có chuyện đó.

 

Quốc sư nói:

   Thái Tử thử nhìn xung quanh nước Xích Quỷ ta, các nước lân ban họ đang làm gì trước con mồi béo bở chúng không xâm lược nước ta được sao ?

 

Thái Tử đáp:

   Tuy đất nước Xích Quỷ ta là một đất nước giàu có, binh lực hùng mạnh nếu riêng lẻ từng nước thời không có đất nước nào đánh bại được đất nước ta. Nhưng nếu các Vương Quốc lân cận thống nhất với nhau thành một khối liên ban xâm lược nước ta, thời nước Xích Quỷ chúng ta sẽ không đỡ nổi. Nhưng không bao giờ có chuyện đó xảy ra, nếu có xảy ra cũng phải hàng nghìn năm nữa và chỉ có một cách, cá lớn nuốt cá bé, các Vương Quốc thôn tính lẫn nhau, rồi trở thành Cường Quốc thời nước Xích Quỷ ta chính là con mồi béo bở cho chúng nuốt.

 

Quốc sư nhìn Thái Tử lập luận phân tích vô cùng thám phục nhưng có chỗ chưa hiểu hỏi:

   Sao phải hàng nghìn năm tới các Vương Quốc mới liên minh nhau, sao không phải là hôm nay hoặc hàng chục năm tới?

 

Thái Tử đáp:

   Hiện nay trình độ dân trí còn quá lạc hậu, các Vương Quốc đang sống trong giáo điều và điều lệ, do Quốc Vương nước đó tự đặc ra để cai quản thống trị độc quyền độc tài khó mà liên minh cùng các nước chỉ còn cách là thôn tính lẫn nhau, mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, rồi trở thành một cường quốc.

 

   Không thể có chuyện các Vương Quốc vào giai đoạn hiện nay liên minh với nhau thống nhất cùng nhau, trở thành một thế lực Cường Quốc mà phải đến hàng nghìn năm nữa, trình độ dân trí lên cao, không phải sống theo giáo điều và điều lệ do Quốc Vương đặc ra để thống trị. Mà sống theo căn bản Quyền Con Người trở thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý công bằng bình đẳng, thời mới liên minh liên kết các nước được Hợp Chủng Tộc Tiến Lên Hợp Chủng Quốc. Với sức mạnh ấy thời không có một đất nước nào chống trả nổi, dù cho đó là một cường quốc. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý Chân Chính không phải do Quốc Vương tự đặc ra mà do Công Lý Xã Hội dựa trên nền tản Quyền Con Người công bằng xã hội mà ra, tầng lớp trí thức nhân sĩ soạn ra, được đúc kết tinh hoa nhân loại hàng nghìn nghìn năm.

 

   Nhưng cũng có Hiến Pháp, Luật Pháp, Công Lý trá hình do chế độ Độc Quyền, Độc Tài, Độc Trị lập ra cũng cố địa vị cho mình trói buộc dân chúng hết sức hà khắc biến dân chúng sống trong nhà tù xã hội. Những thức Hiến Pháp, Luật Pháp giả hiệu nầy không mấy hiệu quả cho công suộc trị quốc an dân vì tính bất công quá lớn. Lại tước đoạt hết quyền con người của mỗi người dân do thể chế độc tài độc trị tạo ra. Vì vậy đối kháng của nước Xích Quỷ chúng ta trong tương lai vài mươi năm nữa, không phải đối kháng Cường Quốc liên minh mà là đối kháng Cường Quốc tàn bạo độc tài độc trị. Chúng thôn tính đất nước ta bằng mọi thủ đoạn, gian manh xão trá và bạo lực.

 

Quốc sư với vẻ mặt sáng tỏ nói:

   Nếu bị chúng xâm lược thì ta phải làm sao?

 

Thái Tử suy nghỉ rồi trả lời:

   Với tình thế hiện nay, phương Bắc nước Xích Quỷ ta có nhiều Vương Quốc nhưng phải kể ba Vương Quốc đang lớn dần và hùng mạnh, đó là Vương Quốc Đế Lai, Đế Nghi, Đế Minh con cháu nhiều đời của Phục Hi, Hiên Viên.

 

Thái Tử nói:

   Muốn đối kháng hay đánh bại ngoại xâm việc lường trước là việc cần phải làm, phải nói làm thường xuyên lên kế sách nữa là khác, những đường đi nước bước âm mưu của các thế lực ngoại xâm. Phải nói là đừng để mắc mưu chúng, nhất là mưu trong kế sách ngoại giao lâu dài, những cái lợi bao giờ cũng có cái hại. Nếu không tinh ý thời khó phát hiện có thể cả hàng trăm năm sau mới phát hiện được. Thế lực cũng như danh và lợi là ba miếng mồi ngon để câu nhử ta, chúng có thể tôn ta lên rồi hại ta, luồn cúi ta rồi trăm phương nghìn kế để hạ gục ta, chúng khéo léo vơ vét tài nguyên béo bở mà lâu nay chúng mơ ước cũng không bao giờ có. Chúng là những con Sói ngày đêm rình rập con mồi hể có cơ hội là xơi.

 

   Trước hết chúng ta phải tìm hiểu rõ chúng là Cáo, là Sói, là Beo cho rõ. Nếu chúng là con quái vật vừa là Cáo, vừa lá Sói, vừa là Beo thời chúng ta mới có kế sách để đối kháng về lâu về dài. Biết người biết ta là nền tản cơ sở ưu khuyết của ta, ưu khuyết của địch, để rồi tìm ra kế sách đối kháng, định hướng chiến lược sách lược. Chỉ có Ánh Sáng Chính Nghĩa truyền thống luôn luôn sáng tỏ đến tận hang cùng ngỏ hẻm, một ý tưởng xấu nỗi dậy là phát hiện ngay, ánh sáng Chính Nghĩa Văn Hóa truyền thống được trao cho mỗi người dân, dù chỉ là một phần nhỏ, dân chúng cũng phát hiện ra âm mưu của giặc. Loại Chồn, Cáo, Beo, Sói ẩn núp bất chính mưu đồ chiếm đoạt nước ta.

 

   Chúng ta chỉ sợ các thế lực ngoại xâm có nội ứng bên trong, còn thế lực không có nội gián bên trong nội ứng chỉ đường cho giặc, đó chỉ là xâm lược mưa rào không có gì đáng sợ. Nếu kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực, thời ta mạnh hơn họ về dân vận chính trị, đoàn kết muôn người như một. Toàn dân kháng chiến, sức mạnh toàn dân là sức mạnh vô địch. Phải biết chờ thời cơ, cướp lấy thời cơ tiêu diệt chúng, tính cách khôn khéo nhẩn nhịn, nhẩn nhục, nhẩn nại, có tam nhẩn chính là Mật Tạng của Hùng, Bi, Trí, Dũng vượt qua bao chướng ngại khó khăn đưa đến thành công.

 

   Nếu ánh sáng Chính Nghĩa đó chính là ánh sáng Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo dân tộc thời các thế lực ngoại xâm, xâm lược ấy coi như đã bước chân vào chỗ chết, có đi mà không có trở về tất cả đều bỏ mạng. Nếu ngoại xâm kẻ thù mạnh hơn ta về vũ lực cả chính trị lẫn nội ứng. Thời ta phải mạnh về truyền thống anh linh Ông Cha, phát huy tinh thần Quốc Đạo Dân Tộc, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, mỗi người dân là một anh hùng dân tộc. Mỗi chiến sĩ dũng cảm. Mỗi vị tướng tài năng đủ khôn khéo chuyển xây tình thế biến nguy thành an, biến bất lợi thành đại lợi Lòng yêu nước là tường thành kiên cố, ngoại xâm khó mà vượt qua tường thành yêu nước toàn dân nổi. Hơn nữa tà không thắng được chánh. Sức mạnh Chính Nghĩa là sức mạnh bất tử vô địch, bản sắc dân tộc Văn Hóa Cội Nguồn, truyền thống anh linh Ông Cha, truyền thống kế thừa tự hào giữ vững nền độc lập. Mỗi người dân ai cũng vì non vì nước, toàn dân là chủ của đất nước, đồng tâm quét sạch quân thù, sức mạnh nội lực truyền thống dân tộc, là sức mạnh Chính Nghĩa dời non lấp bể. Sức mạnh nội lực ấy đứng vững trên nền tản Quốc Đạo Dân Tộc, sức mạnh của lòng trung hiếu đối với Cha Ông đối vơi Non Sông Tổ Quốc. Dù cho ngoại ban họ có mạnh tới đâu cũng bị đánh bật ra khỏi đất nước, thất bại nhục nhã. Những thứ rác rưởi nhơ nhớp xâm lược của chúng đã bị chúng ta quét sạch, và vùi chúng xuống hố rác nhục nhã nhơ bẩn để mùi hôi thối của chúng đến mấy nghìn năm vẫn chưa hết.

 

Quốc sư lại hỏi:

   Thế lực ngoại xâm mạnh quá chúng đè bẹp chúng ta thời làm sao?

 

Thái Tử đáp:

   Nếu thế lực mạnh hơn ta gấp trăm nghìn lần, thế lực ngoại xâm là đá, còn thế lực của ta là trứng. Thái Tử nói nếu có trường hợp đó, chúng ta biến đất nước ta thành đất nước trống không, dân chúng sẽ được dời đến nơi hiểm địa, núi rừng hiểm trở tạo ra thế nước chảy đá mòn, chiến tranh du kích lâu dài, nung nấu thời cơ chờ đợi. Chúng ta thắng giặc phải thắng trên đất nước của họ, tạo ra chiêu pháp làm cho đất nước họ rơi vào kể bẫy tiêu diệt lẫn nhau ngay nơi triều đại của chúng, gậy ông đập lưng ông. Đánh Rắn phải đánh dập đầu, làm cho đất nước họ đảo lộn, tranh giành quyền lực với nhau dẫn đến thôn tính nhau lật đổ nhau, đó chính là thời cơ chúng ta quật khởi, từ thế lực của trứng nước, chuyển thành thế lực di sơn đảo hải ập tới như cơn bão lốc xóa sổ chúng. Chỉ có Văn Hóa anh linh Truyền Thống ung đúc lên sức mạnh tinh thần dân tộc. Nhất quyết không để mất nước, nhất quyết không làm nô lệ, noi gương khí phách Ông Cha xông lên quét sạch quân thù. Một dân tộc luôn luôn ôm ấp Chính Nghĩa ôm ấp lòng yêu nước thời không sợ một thế lực ngoại xâm nào cả. Khi thế lực ngoại xâm mạnh hơn ta, tạm thời ta tạo ra thế vườn không nhà trống mà thôi làm cho ngoại xâm không biết đâu mà lường. Bổng chốc nở ra thế lực Đại Bàng, mang dòng máu anh hùng, nanh vuốt hận thù, bất khuất, quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh, đồng loạt khởi nghĩa, chắc chắn phần thắng lợi sẽ thuộc về mình. Vì lúc ấy con Mãng Xà hung dữ đã mất sức mạnh từ đất nước của chúng, lại thêm chúng không hiểu về thực lực của ta, sức mạnh của chúng đã bị lung lay, vì đất nước của chúng đã đi vào hổn loạn. Thời cơ đã chín mùi, chính là lúc chúng ta quét sạch quân thù ra khỏi non sông Tổ Quốc.

 

   Dân là nguồn tài nguyên vô giá của Quốc Gia, vì vậy ta phải chăm lo cho dân thật tốt. Dân là tường đồng vách sắt, ngăn cản và vùi dập quân thù xâm lược. Vì thế ta phải để cho dân tự phát triển mưu cầu nuôi lớn trí huệ, nuôi lớn tài năng, phát huy nội lực dân tộc hùng mạnh. Dân là Gươm Thiên sông núi, bảo vệ gìn giữ non sông Tổ Quốc. Nên ta phải bảo vệ cái quyền của Dân, nhất là những Quyền Cơ Bản của mỗi con người. Quyền làm chủ xã hội làm chủ non sông Tổ Quốc. Cũng vận mệnh của một quốc gia  Một đất nước Văn Minh là một đất nước dân trí phải được nân cao dân trí lên cao chính là nguồn tạo ra sự giàu sang xã hội cũng như sức mạnh của một dân tộc. Đem lại sự hùng mạnh của một Quốc Gia dân tộc. Nói tốm lại Dân là nguồn tài nguyên vô giá của non sông Tổ Quốc, không có một thứ quí giá nào sánh kịp, kể cả vàng ngọc Kim Cương Trân Châu. Vậy nên phải có chính sách lo cho dân chu đáo, để cho dân được tự do phát triển, thời không một đất nước nào xâm lược, hay đánh thắng được dân tộc đất nước chúng ta. Kể cả đất nước mạnh hơn đất nước ta gấp mười lần.

 

   Dân là một nguồn tài nguyên đất nước vô giá như vậy, nhà nước lại không biết quan tâm, còn ra thể chế nầy thể chế nọ trói buột dân chúng tước hết Quyền Con Người thời đất nước đó mạnh về kinh tế giàu về tinh thần sao được, phải nói là lụn bại. Làm Quốc Vương mà ít quan tâm bỏ mặc dân chúng. Không những thế lại còn vơ vét bóc lột thậm tệ làm cho cạn kiệt lòng dân, nước cạn thời cá sống ở đâu ? Thuyền lấy nước đâu để mà vương ra xa. Nếu nói dân là nước còn Vương, Quan chính là cá, thời phải theo kế sách ao sâu béo cá, nước giàu dân mạnh thời cá yên, nước nghèo dân mạc thời cá cùng đường, Chồn, Cáo, Hổ, Báo ăn thịt sạch. Làm Quốc Vương phải kiên định.Thắng không kêu, bại không nản, dù tạm thời bị nô lệ hoặc bị nô lệ nhưng bản sắc Văn Hóa Anh LinhTruyền Thống không mất, đó la thế bất bại của một dân tộc Hổ phục Rồng nằm, chờ thờ cơ là quật khởi, một dân tộc bất khuất là dân tộc biết yêu truyền thống Văn Hóa của mình, từ thế bại vì quân giặc quá mạnh, nhưng sẽ chuyển thành thế thắng, sớm hay muộn mà thôi.

 

Thái Tử nói tiếp:

   Xâm lược bạo lực không độc hại bằng xâm lược Văn Hóa, sở dĩ một dân tộc bị nô lệ hàng nghìn năm, chính dân tộc đó đã bị Văn Hóa ngoại xâm đè bẹp tinh thần dân tộc, ngóc đầu dậy không nổi, Văn Hóa ngoại xâm đã thống trị tinh thần dân tộc của họ, làm cho họ khiếp đến nổi phải tôn thờ Văn Hóa ngoại xâm nghe theo và làm theo.

 

   Nước Xích Quỷ ta Tôn Thờ Thần Mặt Trời là vị Thần tối cao vũ trụ, trong khi ấy các nước lân ban các quốc vương Văn Hóa Tôn Thờ thấp hèn. Thờ Quỷ Thần, thờ Thần Cầm, Thần Thú, còn các nước Phương Tây thời Phù Thủy. Nên các nước Phương Đông cũng như Phương tây  không nước nào đủ sức xâm nhập Văn Hóa đánh bại sự tôn thờ của dân tộc ta. Nên tinh thần dân tộc nước Xích Quỷ luôn đứng vững. Độc Lập vì thế mà kéo dài không một đất nước nào sánh kịp. Nhưng tình hình hiện nay đã đổi khác các nước lân ban nổi lên mạnh về bạo lực gươm đao giáo mác, mạnh được yếu thua. Mạnh tồn tại yếu xóa sổ. Nên nước Xích Quỷ Ta phải có chiều hướng đổi mới, mới mong giữ vững nền độc lập thái bình an lạc.

 

Quốc sư lại hỏi:

   Thưa Thái Tử giả sử có trường hợp, giặc ngoại xâm đã đuổi, giặc Tham Quan sanh ra làm hại dân hại nước thời làm cách nào để loại bỏ ?

 

Thái Tử nghe Quốc sư hỏi thế thời lấy làm khó nghĩ mà cũng khó trả lời nhưng rồi Thái Tử cũng phải trả lời. Thái Tử nói:

   Thắng giặc ngoại xâm đã khó, nhưng dẹp loạn quan tham lại càng khó hơn. Nhưng không phải khó mà làm không được, biết cách lèo lái chính sách cũng như xóa bỏ Độc Tài Độc Trị, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nghiêm minh. Tam quyền phân lập kiểm soát nhau hổ trợ nhau. Giữ vững kỷ cương đất nước giáo dục đạo đức Dân, Quan, Vua đều theo một Đạo Luật Minh Chính, ai ai cũng là chủ của xã hội, chủ của non sông Tổ Quốc. Và ai ai cũng có quyền Ngôn Luận góp tiếng nói vào Công Lý xã hội chống giặc nội xâm đó là giặc Tham Quan làm hại dân hại nước.

 

Quốc Sư Thục Lục lại hỏi:

   Đã là quan thời có quyền sanh sát trong tay ai mà dám tố Quan tham ô, móc ngoặc, hối lộ. Quyền lực của quan có thể che được Mặt Trời.

 

Thái Tử đáp:

   Sanh ra quan tham nhiều phần lớn là do thể chế độc tài độc trị mà ra. Không Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Công Lý trị, nên tham quan mới lộng hành như vậy. Dân làm sao trị được Quan tham, mà dân phản ảnh lên Hiến Pháp Trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Công Lý trị. Công Minh Bình Đẳng không thiên vị một ai, Quan, Dân có tội đều xử như nhau. Thứ Gặc Tham Nầy không chỉ ở Quan mà ngay ở Dân cũng có, Quan tham theo kiểu Quan, Dân tham theo kiểu Dân. Thứ giặc khó trị vô cùng giặc tham quan sanh ra từ nội tâm con người, ăn sâu vào gốc rẽ linh hồn con người. Nhất là Vương, Quan có điều kiện lòng tham khởi lên mạnh hơn sự tham nào cũng dám làm, lòng tham được che đậy đưới quyền lực. Nếu không có Văn Hóa Chính Nghĩa Nhân Quyền Dân Chủ thời khó mà đẩy lùi được. Chúng mãi tồn tại ẩn núp dưới Thể Chế Độc Tài Độc Trị. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính Công Lý hạn chế thời coi như Quốc nạn tham ô tham nhũng không sao tránh khỏi. Dưới thể chế Độc Tài Độc Trị việc lợi dụng sơ hở của thể chế để làm bậy, đã là Vương, Quan làm bậy thời còn sợ ai nữa. Nếu không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp minh chính triệt phá. Giặc tham Quan rất nhiều dạng nhưng động cơ sanh ra chúng, đó là Dục Vọng bất chính tà tâm, dựa trên tham lam mưu cầu danh lợi riêng mà ra. Cũng bỡi gì không kìm hảm được lòng tham háo danh, háo lợi bất chính mà biết bao người phản Quốc hại dân, phản Tổ, phản Tiên, làm tổn hại Non Sông Tổ Quốc, tổn hại Đồng Bào dân tộc. Tội ác chi cũng dám làm, kể cả người thân của họ cũng bị loại bỏ. Tánh tham lam trục lợi bất chính khó ai mà diệt tận chúng nổi, vì chúng ẩn núp trong linh hồn con người. Linh Hồn con người luôn luôn bảo thủ bao che cho chúng, nhất là tần lớp Vương Quan hủ hóa lại còn bao che thói hư tật xấu hơn nữa.

 

   Muốn có một xã hội trong sạch công bằng văn minh ít tham quan, thời xã hội đó phải gieo trồng Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp minh chính quả ngọt hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, đi theo hai con đường, một là con đường Giáo Dục trong các trường học. Hai là con đường Đạo Pháp Văn Hóa Chính Nghĩa truyền thống truyền dạy nơi các thờ tự. Với chính sách lấy Dân làm gốc, dân là chủ của đất nước, chủ của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Lý. Quyền con người cũng như quyền của mỗi người dân phải được tôn trọng và bảo vệ, bất khả xâm phạm dù cho đó là Vương Quan. Tạo Hóa sinh ra đều bình đẳng, những quyền Tạo Hóa ban cho đều được thực thi. Nhà nước chính quyền lúc nào cũng làm hết trách nhiệm thực thi Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp minh chính bảo vệ  quyền những quyền cơ bản của dân. Chính quyền là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, nhân quyền, Dân Chủ. Một đất nước bình đẳng. Một đất nước mà Đế, Vương, Vua, Chúa không phải là tối cao trên hết mà là Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp  Công Lý Công Bằng, Bình Đẳng trên hết. Thời nhà nước đó không lo về quốc nạn tham nhũng, tham ô. Dân chúng Vương, Quan sống trong môi trường lành mạnh.

 

   Mỗi người dân là mỗi dũng sĩ diệt gian, diệt thói hư tật xấu của chính mình và tệ nạm xã hội, phê bình và tự phê bình, tự mình xóa bỏ điều quấy, không ai thay thế xóa bỏ thói hư tật xấu cho mình, nếu không xóa bỏ thời tự mình hại mình không sớm thì muộn cũng bị sa đọa, trước là sa đọa cuộc đời, sau là linh hồn sa đọa âm phủ. Một đất nước đi vào Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, xóa bỏ độc tài độc trị, thời đất nước đó có trình độ dân trí cao, giác ngộ Đạo Đức Chính Nghĩa lớn, làm chủ mình, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc cho đến làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng xã hội. Muốn có xã hội ít tham quan làm hại dân hại nước là tất cả đi trên con đường Văn Hóa Cội Nguồn Chủ Nghĩa Đại Đồng Thiên Ý Cha Trời, Thiên Luật vũ trụ, thực thi rốt ráo quyền con người. Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng xã hội tiến tới dân giàu nước mạnh tự do ấm no hạnh phúc.

 

Quốc sư Thục Lục càng nghe Thái Tử thuyết giáo phép trị quốc mới lạ chưa từng nghe thấy bao giờ, nhưng xem đi xét lại thời câu nào cũng có lý, có cơ sở để mà thành công Thục Lục nghĩ không lẽ lời biện minh của Thái Tử là phép trị quốc trên trời Thái Tử muốn áp dụng vào chốn nhân gian.

 

Quốc Sư Thục Lục lại hỏi:

   Thưa Thái Tử từ xưa tới nay khắp các nước nhỏ lớn, dù xưng Đế, xưng Vương, xưng Vua, xưng Chúa thời cách cai quản đất nước na ná như nhau, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giai cấp thống trị chính là Vương, Quan của đất nước đó, còn giài cấp bị trị chính là dân. Nay lại nghe Thái Tử nói trên Vương, Quan có Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị, nhà nước chỉ là hiện thân, thực thi Công Lý Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, đem lại sự Công bằng, Bình Đẳng xã hội. Giai cấp Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung thành, bảo vệ Hiến Pháp, Luật Pháp. Đạo Pháp. Thi hành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp không thiên vị một ai, quan cũng như dân hể có tội liền bị xử như nhau, việc này có thể làm được sao? Hay chỉ là một giả thuyết mơ tưởng.

 

Thái Tử nói:

   Không phải giả thuyết mơ tưởng đâu đó là xã hội Thần Thánh, xã hội Công Bằng văn minh nhân loại.

 

Thái Tử nói:

   Đạo Đức trị, Hiến Pháp trị, Luật Pháp trị hay hơn điều lệ trị, giáo điều trị, chế độ trị. Độc tài trị. Nhất là bạo lực trị. Chỉ làm cho cuộc sống khốn khổ, dân khốn khổ thời Vương, Quan cũng chẳng được yên. Chế độ độc tài độc trị dùng bạo lực trấn áp cai trị dân chúng thời nhà tù mở rộng ra, Đạo Đức trị thời nhà tù khép lại.

 

Thế nào là Văn Hóa Đạo Đức trị ?

   Đạo Đức trị chính là dùng Văn Hóa Đạo pháp Chính Nghĩa giáo dục con người giảm bớt tội lỗi cũng như tội phạm, thay thế cho thể chế độc tài độc trị bạo lực đàn áp cai trị con người. đưa xã hội đi lên Văn Minh vật chất lẫn tinh thần, cái hay ở Văn Hóa Đạo Pháp Trị là ở chỗ đó.

 

   Văn Hóa Đạo Pháp Trị không những giảm hận thù mà còn đoàn kết dân tộc. Văn Hóa Đạo pháp trị có ánh sáng Chính Nghĩa có công năng làm cho con người bỏ ác hành thiện, giác ngộ thấy cái sai của mình, tự sửa chữa những hành vi thói hư tật xấu hình thành nhân cách tư cách con người, đối nhân xử thế văn minh mẫu mực.

 

   Trình độ dân trí được nâng cao. Là nhờ có Văn Hóa Chính Nghĩa cải hóa tư duy ngăn chặn được vô lượng tội lỗi, do tà tâm sanh ra làm hại cho bản thân cho xã hội, cho non sông Tổ Quốc. Văn Hóa Đạo Đức Chính Nghĩa ăn sâu vào lòng dân, thời đem lại thái bình an lạc tận hang cùng ngõ hẻm nhân loại đi đến chân thiện hoàn mĩ, vừa xua đuổi tà ma và ác quỉ, tiến tới dân giàu nước mạnh tự do an vui hạnh phúc.

 

Thế nào là Văn Hóa Hiến Pháp trị ?

   Văn Hóa Hiến Pháp trị là Văn Hóa khuôn mẫu. Văn Hóa Tinh hoa Cội Nguồn khai dựng lập lên đất nước. Tổ quốc. Dân Tộc. Văn Hóa Hiến Pháp Trị chính là Văn Hóa chính nghĩa Cội Nguồn. Văn Hóa truyền thống anh linh dân tộc. (hay còn gọi là Văn Hóa Nền Quốc Đạo) Văn Hóa khuôn mẫu của đường hướng Luật Pháp, Đạo Pháp, Chính Trị. Nói chung là Văn Hóa Cội Nguồn cốt lõi nòng cốt của kim chỉ nam truyền thống anh linh dân tộc.

 

   Văn Hóa Hiến pháp trị là Văn Hóa truyền thống anh linhTrị. Văn Hóa Hiến Pháp trị, Luật Pháp Trị, Đạo Pháp Trị không phải là Văn Hóa Chế Độ, hay Văn Hóa truyền thống lâu đời của một Bộ Lạc, hay là Văn Hóa của Tôn Giáo Đạo giáo. Mà là Văn Hóa Hiến Pháp Thống Nhất của Đời lẫn Đạo, Văn Hóa Thống Nhất cả trăm Bộ Lạc, Văn Hóa Bách Việt văn Lang, Văn Hóa đỉnh cao của cái Chung trong đó gắng liền cái Riêng của mỗi Bộ Lạc. Văn Hóa Chủ Nghĩa Đại Đồng của đại Dân Tộc.

 

   Văn Hóa Hiến Pháp Trị dựa trên nền tản Quyền con người. Nhân Quyền. Văn Hóa của sự lấy Dân làm gốc Dân Chủ.

 

   Văn Hóa Hiến Pháp Trị là Văn Hóa Chủ Nghĩa của sự công bằng, bình đẳng văn minh, khác xa với Văn Hóa thể chế độc tài độc trị.

 

   Văn Hóa Hiếp Pháp Trị không phải là Văn Hóa phong tục tập quán lạc hậu. Mà là Hiến Pháp khuôn mẫu nền tản của Luật Pháp. Đạo Luật kim chỉ nam cho mọi hoạt động xã hội.

 

   Hiến Pháp Trị chính là Văn Hóa truyền thống anh linh trị, có công năng cải đổi tư duy con người đưa con người vào một quỷ đạo chung nề nép trật tự xã hội. Hiến Pháp Trị luôn soi sáng tinh thần yêu nước thương dân, tinh thần trách nhiệm xã hội, Tổ Quốc thiêng liêng trên cá nhân của mỗi con người, gia đình, họ tộc. Hiến Pháp Anh Linh Đại Truyền Thống Dân Tộc chính là Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Ánh sáng Hiến Pháp Văn Hóa Cội Nguồn Trị là ánh sáng soi đường cho toàn dân tộc. Nhận thức rõ Chính Nghĩa, Phi Nghĩa. (Hiến Pháp là Vua của Nhà Nước Pháp Quyền, Nhà nước lấy Quyền con người làm Nền Tản, Nhân Quyền. Lấy dân làm Gốc, Dân Chủ. Trở thành nền Quốc Đạo anh linh dân tộc).

 

   Vì thế Hiến Pháp, truyền bá rộng rãi đến mỗi người dân soi rọi tới mỗi người dân, để dân hiểu, dân bàn, dân làm chủ, dân làm theo. Dân tôn thờ, chính quyền các cấp phải có nhiệm khai sáng và truyền đạt đến tận người dân cho dân hiểu dân làm chủ dân kiểm tra, dân làm chủ, dân tôn thờ.

 

Thế nào là Luật Pháp trị ?

   Luật pháp trị, là Luật Pháp bảo vệ Công Lý Công Bằng Bình Đẳng xã hội của Hiến Pháp, Đạo Pháp. Luật Pháp Trị là những điều luật khuôn phép đi vào đời sống xã hội giữ vững kỷ cương, ngăn cấm mọi hoạt động đi ngược lại Hiến Pháp, Đạo Pháp.

 

   Luật Pháp Trị là thừa hành những gì Hiến Pháp có, thi hành những gì  Hiến Pháp cho phép  những chi tiết Văn Từ, Ngôn Từ Văn Pháp trong Hiến Pháp.

 

   Luật Pháp Trị là những điều khoản. Luật lệ khuôn mẫu. Trở thành những Điều Lệnh, Điều Luật, Điều Lệ, đi vào trật tự khuôn phép xã hội Theo Văn Pháp Hiến Pháp Đạo Pháp.

 

   Luật Pháp Trị là những điều khoản của Luật Pháp. Trở thành Điều Chế, Điều Chỉnh, Điều Độ, Điều Khiển, bảo vệ Hiến Pháp, cũng như trừng trị những người vi phạm Hiến Pháp. Vi Phạm Pháp luật.

 

   Luật Pháp Trị  khác với Chế Độ trị, Luật Pháp trị khỡi nguồn sanh ra từ Hiến Pháp, dựa trên nguyên tắc Nền Tản quyền con người Nhân Quyền, dựa trên nguyên tắc Dân là Gốc, Dân Chủ Hiến Pháp Đạo Pháp Chính Nghĩa, Nhân Quyền, Dân Chủ  công bằng xã hội.

 

   Luật Pháp Trị, là Luật Phá bảo vệ anh linh truyền thống, bảo vệ quyền con người, cũng như thực thi mệnh  lệnh của Hiến Pháp.

 

   Luật Pháp Trị là hiện thân quyền lực tối cao của Hiến Pháp hiện thân Độc Lập, không lệ thuộc bất kỳ ai hay một Tổ Chức, Cơ quan nào. Hể có tội liền bị xử phạt, ngay cả người đang thi hành pháp luật. Ánh sáng pháp luật có công năng giữ vững kỷ cương đất nước, kỷ cương trật tự xã hội, ngăn chặn mọi hành vi tội lỗi của con người, làm hại xã hội làm hại non sông Tổ Quốc thái bình an lạc.

 

   Luật Pháp Trị là Luật Pháp kỷ cương bảo vệ Nhà Nước Pháp Quyền, Nhà Nước Hiến Pháp, Luật pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước Công Bằng Bình Đẳng Nhân Quyền Dân Chủ. Cao hơn nữa Thiên Quyền Nhân Chủ, Nhà Nước của Dân do dân và vì Dân.

 

   Vì thế Ánh sáng pháp luật phải đến tận tay mỗi người dân, dân làm chủ, dân thực thi pháp luật phát hiện tố giác những hành vi phạm tội đi ngược lại Hiến Pháp, Luật Pháp, dù đó bất cứ là ai, dân có đủ quyền quyết định những trọng đại của đất nước, bác bỏ những gì Chính Quyền làm sai không theo đúng Hiến Pháp, Đạo Pháp. Có đủ quyền hạn yêu cầu nhà nước bải bỏ những điều luật phi lý không nằm trong Hiến Pháp Đạo Pháp.

 

   Vì vậy muốn có một đất nước dân giàu nước mạnh, Độc Lập giữ vững lâu dài, thời mỗi người dân là chủ của Hiến Pháp, Đạo Pháp, Luật Pháp toàn dân thi hành công lý xã hội, công bằng văn minh, loại bỏ Chế Độ Độc Tài Độc Trị. Không phù hợp với truyền thống hợp chủng nhiều dân tộc trên 50 dân tộc. Chỉ có Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước Của Dân, Do Dân vì Dân. Nhà Nước Bảo vệ Quyền con người, Nhân Quyền. Lấy dân làm gốc Dân Chủ, tất cả Vua, Quan, Dân, đều sống dưới ngôi nhà chung, ngôi nhà Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Thời đời sống muôn dân, cũng như sự ổn định xã hội mới được thịnh trị tự do ấm no hạnh phúc, bền vững lâu dài.

 

   Một nhà nước độc tài  thời sống theo khuôn khổ Chế Độ. Không có Dân Chủ, Nhân Quyền, tự do.

 

   Một nhà nước pháp quyền thời sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp Đạo pháp dân tộc. Vương, Quan, Chính, Quyền là đầy tớ trung thành cho Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp dân tộc, Luật pháp dân tộc, sống trong môi trường lành mạnh xã hội công bằng văn minh. Non sông Tổ Quốc Độc Lập lâu dài, không có sự âm mưu lật đổ Nhà Nước cũng như Chính Quyền mà chỉ có sự thừa kế Chính Quyền đi trước, thắp sáng Đạo pháp dân tộc, Hiến pháp truyền thống Cội Nguồn dân tộc, Luật pháp Đạo Luật dân tộc nối tiếp đời đời thế hệ nầy sang thế hệ khác cho đến tận mai sau.

 

Quốc sư Thục Lục càng nghe Thái Tử nói tưởng như mình đang sống trong xã hội Thiên Đàng Cực Lạc, Quyền sống, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhân quyền được bảo vệ tôn trọng. Cuộc sống an vui hạnh phúc.

 

Trong khi hiện nay không một đất nước nào, Vương Quốc nào có nền Văn Minh ấy. Mà chỉ theo Phong Kiến Thần Giáo Độc Tài Độc Trị. Vương, Đế, Chúa, trên hết.

 

Những gì Thái Tử thuyết ra có phải đây chính là Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng được nghe trong truyền thuyết nhân gian kể, xã hội Thần Thánh. Xã hội Thiên Đàng Cực Lạc Quốc. Một xã hội có danh có lợi, có cạnh tranh. Nhưng danh lợi, cũng như sự cạnh tranh đều theo một khuôn phép nhất định không ngoài cạnh tranh Công Bằng Bình Đẳng. Tất cả mọi hoạt động xã hội. Theo Kim chỉ nam Hiến Pháp, được Luật pháp công nhận, Đạo Luật cho phép, đó là Chánh Danh, Chánh Lợi, Chánh Cạnh Tranh. Xã Hội Tiến Hóa đi lên tiến tới dân giàu nước mạnh.

 

Tốm Lại : Những thứ danh, lợi. Cạnh tranh bất chính đi ngược lại Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp Chính Nghĩa đó là Tà Danh và Ác Lợi. Tà Danh và Ác Lợi luôn luôn tồn tại trong tân thức ác tánh, lớn mạnh trong các Chế Độ xã hội chuyên quyền Độc Tài Độc trị. Phát nguồn từ Phong Kiến Thần Giáo. Tôn thờ chủ nghĩa cá nhân tồn tại cho tới ngay nay. Và sẽ chấm dứt Không tồn tại trong Chủ Nghĩa Đại Đồng, Thiên Quyền Nhân Chủ, chủ nghĩa tối cao nhân loại con người. Cũng như chủ Nghĩa Nhân Quyền Đa Nguyên Dân Chủ. Vì trình độ dân trí xã hội nhân loại con người đã lên cao, chủ nghĩa Cá Nhân độc tài độc trị không còn phù hợp nữa. Tiến tới xã hội Văn Minh công bằng bình đẳng. Xã hội Đạo Luật nhà nước pháp quyền, Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp trên hết.

*********

 

Hết phần 2 chương 6 mời xem tiếp phần 3 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là Bộ Kinh Văn Hóa Tinh Hoa Rồng Tiên. Cội Nguồn dân tộc Bách Việt Văn Lang, nay là dân tộc Việt Nam. Một dân tộc anh linh Văn Minh tột đỉnh ở thời Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng lập quốc. Có thể nói Văn Hóa mẫu mực trị quốc an dân có một không hai trên nhân loại con người. Những triết lý sâu xa, văn từ thậm thâm vi diệu, chỉ cần hiểu một câu, một chữ cho thông suốt, cũng đặng phước báo vô biên. Hồn Thiêng Dân Tộc che chở. Khí Thiêng Sông Núi Phù Trì. Huống chi truyền bá in ấn biên chép, đọc tụng, thời phải nói là cầu chi đặng nấy, từ nghèo chuyển lên giàu, từ giàu chuyển lên Thánh. linh ứng vô cùng. Khi mạng chung thời siêu sanh về các cõi trời hưởng phước.

 

 

 

CHƯƠNG 6

 

PHẦN 3

 

ĐỜI SỐNG KHOA HỌC

 

Quốc sư Thục Lục thấy Thái Tử trí huệ vô biên như vậy liền nghĩ đến lời nói của vị Đạo Sĩ đón mộng, cũng như xem tướng Thái Tử thời tin chắc rằng Thái Tử chính là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Vị Chí Tôn thừa kế di chí Cha Trời. Chuyển xây vận mệnh nhân loại. Quốc Sư lại nghĩ đã hỏi thời hỏi cho hết những gì khó giải quyết nhất những vấn đề nan giải của xã hội. 

 

Quốc Sư hỏi:

   Giặc ngoại xâm đã trừ, giặc tệ nạn xã hội đã diệt nhưng dân chúng thời nghèo đói, ốm đau bệnh tật, thời ta phải làm sao đẩy lùi chúng?

 

Lại thêm một sự ngạc nhiên nữa đối với Thái Tử, với lối hỏi hóc búa của Quốc sư. Thái Tử nói:

   Thưa Quốc sư đây là câu hỏi khó, không dễ gì trả lời được. Quốc sư mỉm cười nếu khó quá thời thôi vậy. Thái Tử nói, đây là câu hỏi khó, phạm vi rộng lớn, không dễ gì trả lời cho hết được, từ một xã hội vô cùng lạc hậu, trình độ dân trí kém, lại bị dưới quyền thống trị của Chế Độ phong kiến, như nước Xích Quỉ ta đây còn khá, còn thống trị theo kiểu độc tài độc trị cai ngục thời miển bàn tới.

 

Thái Tử nói:

   Lạc Hậu, Đói Nghèo, bịnh tật là một thứ giặc, thứ giặc này khó đánh đuổi chúng ra khỏi đời sống con người, phải nói là quá khó. Muốn đánh đuổi chúng, phải có hai đội quân chủ lực.

 1: Là đội quân trí thức khoa học.

 2: Là đội quân máy móc khoa học.

 

   Phải chờ nền văn minh Địa Tiên ra đời phải có một sự cải cách xã hội lớn lao, không phải ai cũng làm được. Nhất là thời kỳ ngày nay thời kỳ sơ khai khoa học vật chất ở các Cường Quốc hùng mạnh như chúng ta cũng chỉ ở giai đoạn sơ khai văn minh vật chất, dù biết rằng Nước Xích Quỷ ta nổi tiếng là văn minh lúa nước, văn minh kim loại đồng thau. Tuy ở trong thời đại Phong Kiến Thần Giáo nhưng cũng hình thành Chế Độ Quân Chủ Lập Hiến. Còn ở các Vương Quốc khác chỉ có một hai Vương Quốc gần theo kịp ta còn tất cả thời lạc hậu còn xa lắm, nếu họ theo kịp thời đại Kinh Dương Ta, thời phải mấy trăm năm nữa.

 

   Con đường giải thoát đói nghèo, ốm đau, lạc hậu không còn con đường nào khác hơn là con đường tiến tới làm chủ khoa học, làm chủ thiên nhiên, từng bước từng bước phát minh sáng kiến khoa học trong thế giới vật chất. Lần mò hiểu chúng, kết cấu chúng, làm chủ chúng, áp dụng chúng, biến hóa chúng thành những thứ mình cần, đa dạng hóa công cụ, sản phẩm, khoa học kĩ thuật, khoa học kiến tạo, khoa học chế tạo luôn luôn bổ sung chỉnh sửa, tiến tới mỗi ngày mỗi hoàn hảo. Liên kết Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo ra máy móc khai thác điện năng, tạo ra máy móc, thay thế sức lực con người phục vụ cho xã hội, nhất là phục vụ trong nông nghiệp, trong công nghiệp. Khai Thác cho hết công dụng của thể hơi, thể lỏng, thể đặc, thể lực, thời chế tạo ra máy móc mới có hiệu quả cao, tiến xa hơn nữa là khám phá công dụng của thể lực, thể khí vũ trụ, mẹ đẻ của nền văn minh khoa học thế giới vật chất.

 

   Xưa kia con người ở thời Hồng Đế đào đất, đốn cây bằng cuốc đá, rìu đá, lấy lửa chỉ dựa vào sấm sét. Nhưng hôm nay con người đã biết đào đất, đốn cây, lấy lửa khác xa hoàn toàn như nước Xích Quỷ của chúng ta đây, đào đất, chặt cây bằng cuốc đồng cuốc thau, rìu đồng rìu thau, lấy lửa không cần chờ sấm sét mà dùng đá cứng ma sát mạnh vào nhau để lấy lửa, còn các bộ lạc lạc hậu thời chưa có trình độ ở mức này, chỉ có ở các Vương Quốc hùng mạnh mà thôi.

 

   Ở thời Hồng Đế con người chỉ biết hái, lượm để sống, săn thú, cầm, bò sát để tồn tại, lấy da che ấm nhưng hôm nay nước Xích Quỉ ta đã biết trồng trọt, chăn nuôi để sống, hái lượm săn Thú, Cầm, bò sát chỉ là phụ thuộc mà thôi, che ấm bằng tơ tằm dệt vãi. Thời đại ở hang, ở động đã qua, thời đại ở nhà, ở lều thịnh hành và đang tiến tới cảnh lầu đài cung điện.

 

   Thế giới ấm no hạnh phúc giàu sang không ở đâu xa mà ở ngay trước mắt, chúng ta muốn có ấm no hạnh phúc lâu dài thời ít lệ thuộc vào Thiên Nhiên như thời Hồng Đế lấy lửa nhờ sấm sét. Thờ Lửa. Còn thời nay ta là chủ nhân của lửa, muốn có lửa là có lửa, chúng ta muốn có xã hội ấm no hạnh phúc thời chúng ta là Đấng Tạo Hóa thứ hai, kế theo thừa kế Tạo Hóa Tổ Tiên. Tổ Tiên tạo lập vũ trụ, thế giới vật chất, còn ta tạo lập cuộc sống, cấu kết vật chất kiến tạo lên cuộc sống ấm no, xây dựng xã hội Thiên Đàng Cực Lạc. Để làm được thế chúng ta cần hiểu rõ căn Cội của thế giới vật chất, công dụng công năng của chúng làm chủ chúng, như ta làm chủ tìm lấy lửa, biến cái chung mà chúng ta cần dùng.

 

   Như thời ông Cha ta VIÊM ĐẾ THẦN NÔNG. VIÊM ĐẾ SÙNG LÃM với nền văn minh lúa nước, văn minh hội họa giao tiếp, làm thông điệp xã giao, ngoại giao. Chúng ta muốn giải trừ đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật thời chúng ta phải giải trừ sự ngu dốt, tiến tới làm chủ khoa học kỷ thuật, tiến tới làm chủ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, sống trong xã hội công bằng văn minh, mang tính cách phục vụ cao.

 

   Nhà nước phải có chính sách thông thoáng, không gò bó sự phát triển, cá nhân tập thể ưu đãi người có tài, ưu đãi sở hửu trí tuệ, khuyến khích phát minh bảo vệ giúp đỡ họ. Nắm bắt thời cơ hội nhập kinh tế, làm trung gian Cung Cầu, cho mọi tầng lớp phát triển. Dân phát triển theo kiếu khả năng của dân, nhà nước phát triển theo kiểu qui mô của nhà nước, những cái mà dân không đủ sức làm được. Như khai thác quản lý tài nguyên Quốc Gia, xuất nhập dung hòa sản phẩm, khai mở huyết mạch giao thông, trọng yếu Đường biển, Đường sông, Đường bộ, Liên thôn, Liên xã, Liên Quận, Liên Huyện, Liên Châu, Liên Bộ, Liên Miền thông thương dọc ngang như bàn cờ, biển thông lên núi.

 

   Chính sách ngoại giao, giáo dục được coi như đưa lên hàng đầu. Quan quyền thời bình, thời trở thành các nhà kinh tế lãnh đạo khoa học kĩ thuật, lãnh đạo ngoại giao, làm mối giềng chổ tựa cho các thế lực trong nước, ngoài nước trao đổi kinh tế. Bảo vệ tốt, trọng tài tốt. Nhà nước, nhân dân, các thế lực kinh tế đồng có lợi. Một nhà nước không sợ các thế lực, Quân sự, kinh tế, chính trị lật đổ, là một nhà nước pháp quyền, có nền Quốc Đạo vững chắc. Truyền thống dân tộc vững vàng, như dãy núi cao mà các thế lực với không tới, vược qua không nổi.

 

   Với tài nguyên phong phú của từng vùng, từng quốc gia, từng đất nước. Gạo đổi lấy muối, cá đổi lấy ngô. Vải bô đổi lấy Voi Ngựa. Nhờ trao đổi sản phẩm, kiến thức khoa học nhờ đó mà tăng lên rất nhanh.

 

   Tôn trọng quyền phát minh, sáng kiến của mỗi người dân. Luật pháp bảo vệ họ, nhà nước khen thưởng họ, giúp đở họ. Coi họ như là chiến sĩ có công với xã hội. Đó chính là phát huy tìm năng nội lực quí báu của dân tộc. Nội lực tri thức khoa học. Nhờ nội lực tri thức nầy, đưa đất nước tới xóa đói giảm nghèo. Đẩy lùi lạc hậu. Tôm gốp tinh hoa phát minh sáng kiến, khoa học nhân loại. Truyền bá rộng rãi trong đời sống con người. Đó là thế mạnh đưa đất nước tiến lên văn minh hiện đại. Khuyến khích dân làm giàu, thời nhà nước phải hổ trợ sự phát triển đa năng của dân. Làm trọng tài cho sân chơi cạnh tranh bình đẳng. Có làm được như vậy thời đời sống ấm no hạnh phúc sẽ đến với xã hội con người. Đời sống thăng hoa giải trừ lạc hậu nghèo đói khốn khổ.

 

Quốc Sư Thục Lục càng nghe Thái Tử giải trình. Như mình đang lạc vào một thế giới văn minh đỉnh cao nhân loại con người thế giới thiên đàng cực lạc trần gian. Nhờ sức thông minh hiếm có của Thục Lục. Quốc Sư Thục Lục Không những thông suốt giải đáp mọi thắc mắt xưa nay của mình. Mà còn làm cho mình thấy được chân trời mới. Chân trời của sự giãi thoát đói nghèo, lạc hậu.

 

Thái Tử tuy còn nhỏ. Nhưng có tầm nhìn rộng lớn, Của bật đại giác ngộ. Bậc Tôn Sư lãnh đạo đất nước. Hiểu rõ sự tồn vong, của một đất nước cũng như cuộc sống đi lên xã hội. Và thật vậy con người đứng vững được là nhờ bộ xương.  Tổ Quốc đứng vững mãi là nhờ rường cột, cốt lõi của đạo đức anh linh truyền thống. Dân giàu nước mạnh là nhờ đường lối thông thoáng. Làm chỗ dựa vững chắc cho dân phát triển. Việc dân nghèo dân đói, chỉ có dân vươn lên mới giải quyết được.

 

Quốc Sư lại hỏi:

   Muốn độc lập kéo dài, ngoài từ bỏ con đường gia đình trị, chế độ độc tài độc trị, phong kiến thống trị, tiến tới Nhà Nước Pháp Quyền, xã hội công bằng bình đẳng. Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Trở thành Nền Quốc Đạo truyền thống của dân tộc tối cao. Còn Vương, quan chỉ là đầy tớ trung thành của Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp dân tộc. Ra sức bảo vệ và triệt để thi hành Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp dân tộc, giữ vững cán cân Công lý, Công bằng Xã Hội. Lấy Đạo trị dân, lấy Đức trị dân, lấy Công Bằng Xã Hội trị dân. Làm cho dân phát triển dân trí, chấn hưng dân khí, thấm nhuần đạo lý  truyền thống, Ông Cha, thấm nhuần Đạo Đức, thấm nhuần Hiến Pháp - Luật Pháp - Đạo Pháp.  Đặc quyền lợi xã hội trên quyền lợi cá nhân. Sống vì Tổ Quốc, sống vì Đồng Bào nhân loại anh em. Cái chung là thể xác, cái riêng là tế bào, tế bào chết thời thể xác tan rã cũng chẳng còn. Cái Chung cái Riêng luôn song hành hiện hửu tuy hai mà một, tuy một mà hai. Sự trường tồn của cái chung, cũng chính là sự trường tồn của cái riêng.  Ngoài những mấu chốt căn bản kể trên còn có thêm điều gì nữa không?

 

Thái Tử đáp:

   Quốc sư hiểu như thế là quá đủ lắm rồi nhưng có một vài điều làm sáng tỏ thêm cái chung và cái riêng.

*********

 

Hết phần 3 chương 6 Long Hoa Mật Tạng, mời xem tiếp phần 4 chương 6.

 

 

 

CHƯƠNG 6

 

PHẦN 4

 

CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG

 

Thái Tử nói:

   Văn Hóa Đạo pháp Chính Nghĩa truyền thống Anh Linh Dân Tộc. Văn Hóa Hiến pháp Chủ Nghĩa Đại Đồng đoàn kết dân tộc. Văn Hóa Luật pháp Bình Đẳng công bằng dân tộc là cái chung của toàn xã hội, không phải của riêng ai, cá nhân hay một tập thể nào, thuộc về Quốc Bảo Văn Hóa cái chung của toàn dân tộc, cũng như Non Sông Tổ Quốc, không của riêng ai là Tổ Quốc chung của toàn dân tộc. Chính quyền do dân bầu ra, không phải là để đàn áp cai trị dân mà là đại diện cho dân nắm vững cán cân công lý, thực thi cái chung công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi chung cho toàn xã hội trong đó có quyền lợi riêng của mỗi người. Quyền lợi chính đáng mà Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp cho phép.

 

   Ở các thời phong kiến, phong kiến Thần giáo, phong kiến Địa Chủ, phong kiến Chế Độ độc tài độc trị. Dân có cái riêng nhưng chỉ là cái riêng để mà sống không những không làm chủ được cái riêng sự sống của chính bản thân mình, nói gì đến cái quyền làm chủ cái chung, không có cái quyền làm chủ non sông Tổ Quốc, không có quyền làm chủ xã hội, tất cả là của trẩm, thiên hạ Đồng Bào là của trẩm, non sông Tổ Quốc đều là của trẩm. Thử hỏi Đồng Bào nhân dân có cái gì là quyền riêng của mình đâu, vì tất cả là của Vương, của Vua, của Chúa đương thời, Vua muốn cho là cho, muốn lấy là lấy. Thậm chí Quyền sống, Quyền được sống, Quyền ngôn luận, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc, làm gì được có những thứ Quyền ấy, mà sống trong sự thống trị của Chế Độ Điều Lệ độc tài độc trị do Vương, Vua, Chúa phê duyệt ban ra theo ý Vương, Vua. Chúa. Nếu gặp thời may mắn Vương, Vua, Chúa có chút Đạo Đức nhân tính thời còn dễ thở. Bằng gặp phải Hôn Quân, Vương, Vua, Chúa vô Đạo thời dân chúng vô cùng khốn khổ, phải nói sống như một đầy tớ nô lệ mà thôi, Vua biểu chết là chết, Vua cho sống là sống vận mệnh của mỗi người dân đều nằm trong tay của Đế, Vương, Vua, Chúa đương thời, thử hỏi dân có cái quyền đâu mà để có được hạnh phúc, nói chi đến chuyện tự do, làm chủ.

 

   Đã không có quyền, thời sống như nô lệ  không được làm chủ bất cứ những gì. Người dân sống dưới các thời phong kiến Thần Giáo, Phong Kiến Độc Tài Độc Trị, người dân không những mất cả sở hửu cái riêng, cũng như cái chung, sống như một đầy tớ nô lệ, họ không có cái quyền chi cả, dân không bao giờ được làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc mà ngay cả bản thân, làm chủ quyền sống cũng không làm chủ được nói gì đến quyền làm chủ sở hửu tư riêng, quyền làm chủ sở hửu cái chung. Dân không có cái quyền thừa kế Truyền Thống Xã Hội. Non Sông Tổ Quốc mà bao thế hệ Ông Cha đã gầy dựng lên. Đây cũng là một sự thiệt thòi của mỗi người dân đầy bất công trong cuộc sống.

 

   Tạo Hóa Tổ Tiên khi khai tạo ra loài người thời cũng đã ban cho mỗi con người nhiều thứ quyền, trong đó có Quyền sống, Quyền được sống, Quyền làm chủ, Quyền tự do, Quyền bình đẳng, Quyền ngôn luận, Quyền mưu cầu hạnh phúc, những thứ Quyền ấy dưới các triều đại Phong Kiến Thần Giáo, Phong Kiến độc tài độc trị, đã bị sự độc tài độc trị, cướp lấy đi, không cho người dân có những thứ quyền ấy. Đây là một thiệt thòi vô cùng lớn lao cho những người được sinh ra làm người và lớn lên trong xã hội. Sống trong sự sống đầy sự vô lý, và những bất công thời xã hội con người khó mà văn minh được. Các Vương, Vua, Chúa thời nay hầu hết là chưa nắm rõ và hiểu rõ Thiên Luật, Thiên Tạng vũ trụ, chưa hiệp theo Thiên Mệnh, vì thế Thể Chế Độc Tài Độc Trị Vương, Vua, Chúa sẽ dần dần loại bỏ, một khi xã hội phát triển tiến lên đến xã hội công bằng văn minh, một xã hội mà người dân có cả sở hửu cái chung mà cũng có cả sở hửu cái riêng. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nhân Quyền Dân Chủ Công Bằng Bình Đẳng văn minh.

*********

 

Hết phần 4 chương 6 mời xem tiếp phần 5 chương 6 Long Hoa Mật Tạng. Thời chúng ta mới thấy như thế nào là tinh hoa cuộc sống của con người. Mà Quốc Tổ đã truyền dạy cho Bách Việt Văn Lang, một dân tộc văn minh tuyệt đỉnh ở vào thời đại đó. Dần dần đi vào thất truyền âu đó cũng là cơ vận của tọa hóa vậy. Đất nước Văn Lang kéo dài độc lập rất lâu 2701 năm tất cả đều nhờ vào nền Văn Minh Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Tôn trọng quyền con người Nhân Quyền, lấy Dân làm Gốc Dân Chủ. Nhà Nước Văn Lang là Nhà Nước Pháp Quyền. Nhà Nước của Dân, do Dân và vì Dân.

Truyền Thống Cha Ông thật diệu kỳ

Anh Linh Quốc Tổ sáng uy nghi

Gầy dựng non sông ngời tỏa sáng

Con cháu Tiên Rồng dậy mà đi.

 

 

 

CHƯƠNG 6

 

PHẦN 5

 

XÃ HỘI CÔNG BẰNG VĂN MINH

 

Thái Tử nhìn Quốc Sư Thục Lục rồi nói thêm rằng:

   Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội có cả sở hữu cái chung và cũng có cả sở hữu cái riêng ai cũng như ai thuận theo Thiên Luật vũ trụ Thiên Ý Cha Trời, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, cho đến làm chủ Đạo Pháp xã hội, Hiến Pháp xã hội, Luật pháp xã hội. Xã hội Công Bằng văn minh là xã hội cái chung và cái riêng không tách rời nhau, như tế bào và con người, con người và tế bào, tế bào tồn tại là con người tồn tại, tế bào hỹ hoại con người theo đó cũng đi đời, bảo vệ con người cũng chính là bảo vệ tế bào, bảo vệ tế bào cũng chính là bảo vệ con người.

 

   Con người bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Bảo vệ cái chung có nghĩa là bảo vệ quyền lợi riêng cho chính mình, bảo vệ xã hội, bảo vệ non sông Tổ Quốc, bảo vệ Đạo pháp, Luật pháp, Hiến pháp là tự bảo vệ mình. Vì Hiến Pháp. Luật Pháp, Đạo Pháp. Là công cụ bảo vệ quyền con người cái chung, trong đó có cá nhân cho mỗi con người được thế hiện đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Con người là tế bào tạo ra sự sống xã hội. Xã hội là lẽ sống của con người, lẽ sống tồn vong hạnh phúc thời con người xã hội trở nên văn minh.

 

   Xã hội Công Bằng Bình Đẳng văn minh là xã hội không có sự thống trị của Chế Độ độc tài độc trị. Mà tất cả chỉ sống theo Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp công bằng bình đẳng. Giai cấp Vương, Quan chính quyền chỉ là giai cấp đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Giữ vững đạo luật kỷ cương đất nước. Tiến lên thế giới Đại Đồng cũng có nghĩa là tiến sâu vào Đạo pháp công ước Quốc Tế làm sáng tỏ Quyền Con Người (Đạo Luật nhân quyền), bảo vệ tôn trọng nhân quyền là đi đúng Thiên Ý Cha Trời. Bảo vệ Cái quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho mỗi con người, những quyền bất khả xâm phạm. Bất cứ là ai cũng không có quyền cướp đoạt xâm phạm. Những kẻ tự cho mình cái quyền sanh sát thiên hạ, là những kẻ tự đào lỗ chôn mình. Những kẻ tôn trong Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp mới có đầy đủ các quyền mà Tổ Tiên Tạo Hóa đã ban cho họ. Còn những kẻ độc tài độc trị chính họ đã tự đánh mất những quyền mà Tạo Hóa đã ban cho họ. Những kẻ đi ngược lại Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật Vũ trụ. Không sớm thì chầy cũng bị đánh đổ. Những kẻ có tư tưởng thống trị thiên hạ bằng con đường độc tài độc trị.  Là một điều sai lầm lớn dẫn đến đấu tranh giai cấp xung đột tàn sát lẩn nhau. Kết quả đều lưỡng bại câu thương không có kết quả tốt, đưa nhau xuống Địa Ngục.

 

Thái Tử nói:

   Muốn cho dân giàu nước mạnh, xã hội Công Bằng văn minh, Độc Lập lâu dài chỉ có con đường duy nhất là Thuận Thiên, tôn trọng quyền con người, nhân quyền cho mỗi con người mỗi Quốc Gia, mỗi dân tộc. Chúng ta có cái chung nói rộng thời toàn cầu, nói hẹp thời đất nước Xích Quỷ chúng ta phải tôn trọng cái quyền chung là Quyền Con Người, bảo vệ cái chung quyền con người toàn cầu, cũng như đất nước Xích Quỷ chúng ta. Là chúng ta đi đúng hướng hiệp với Thiên Ý Cha Trời. Thiên Luật vũ trụ. Chúng ta bảo vệ quyền con cái chung cũng có nghĩa là bảo vệ sự sống cái riêng của mỗi chúng ta. Bảo vệ sự sống tự do quyền con người nhân quyền của chúng ta, cũng có nghĩa là bảo vệ Nhân Quyền cái chung nhân loại toàn cầu những quyền bất khả xâm phạm. Nếu làm được như vậy thời còn lo chi không tiến tới xã hội dân giàu nước mạnh thế giới thái bình an lạc.

 

   Con đường tiến về Cội Nguồn, là con đường bảo tồn hạnh phúc lấy Đạo pháp truyền thống Chính Nghĩa dạy dân làm món ăn tinh thần trong đời sống hằng ngày, nuôi lớn trình độ dân trí, nuôi lớn tinh thần dân tộc chấn hưng dân khí. Thế hệ trước, thế hệ sau cùng đi chung một con đường truyền thống anh linh như vậy. Thời non sông Tổ Quốc không có một thế lực ngoại ban nào xâm lược nổi. Độc Lập kéo dài là đều tất nhiên.

 

Thái Tử luôn khẳng định:

   Một đất nước phồn thịnh, phải đạt đến cảnh giới Văn Minh Tinh Thần, đi đôi với Văn Minh Vật Chất, Giáo dục là Quốc Sách. Muốn làm được như vậy phải có Văn Hóa Nghệ Thuật. Ca, Múa Nhạc, Kịch, Thể Dục, Thể Thao, Văn nghệ phong phú, võ thuật phát huy rèn luyện thân thể, đưa đẩy phong trào giáo dục văn hóa anh linh Truyền Thống lên cao. Không những đẩy lùi bệnh tật. Mà còn cho con người nhận thức Văn Hóa chính nghĩa lên một tầm cao.

 

   Không có cuộc sống hạnh phúc nào hơn là lấy lễ đối đãi với nhau như anh em một nhà, đối nhân xử thế tôn trọng người khác chính là tôn trọng mình. Tinh thần sáng suốt minh mẩn, trong thể xác khỏe mạnh. Văn Hóa nghệ thuật, võ nghệ, Thể Dục, Thể Thao, ca nhạc, văn nghệ, phong trào lên cao không những làm cho tinh thần sản khoái yêu đời tuổi thọ nâng cao mà còn đẩy lùi được bệnh tật, đưa nhân loại xích lại gần nhau hiểu nhau tất cả đều là bạn, quan hệ giao lưu cùng nhau đôi bên cùng có lợi.

 

Thái Tử nhìn Quốc Sư như tự hỏi Quốc Sư có cần hỏi thêm gì nữa không ?

 

Quốc Sư Thục Lục thưa:

   Thưa Thái Tử. Thái Tử đã vẽ lên một thế giới tương lai kỳ lạ, có thể nói là quá xa xăm xa lạ với cuộc sống nhân loại ngày nay, nhưng những gì Thái Tử thuyết giáo tất cả đều là hiện thực, không phải là ảo tưởng. Hôm nay tuy làm chưa được nhưng Thần tin tưởng ở tương lai, Thái Tử sẽ xây dựng lên đất nước mới, thế hệ mới do Thái Tử lập lên sau này.

*********

 

Hết Phần 5 chương 6 mời xem tiếp phần 1 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Bộ Kinh tối cao có một không hai chốn nhân gian chỉ cần hiểu được thâm ý một câu, một  chữ cũng đã thấy khó lắm rồi. Huống chi hiểu cả chương cả phần kinh. Những thâm ý trong kinh vô cùng rộng lớn thậm thâm vi diệu sâu xa, Chỉ cần giảng một câu một chữ cũng đặng phước đước vô biên rồi. Thái Tử Hùng Lan chính là Quốc Tổ Hùng Vương là vị tối cao Chí Tôn Thiên Đế đầu thai đem Thiên Ý Cha Trời truyền xuống nhân gian. Để cho Nhân Loại trần gian sống theo Thiên Ý mà về trời. Đọc qua Long Hoa Mật Tạng Kinh chúng ta không khỏi tự hào vì dân tộc Việt Nam có vì Quốc Tổ tối cao như thế. Quốc Tổ đã để lại cho chúng ta cho con cháu Việt Nam hai di sản quý hiếm. Một là Tổ Quốc Non Sông. Hai là Văn Hóa Cội Nguồn Truyền Thống Anh linh Dân Tộc. Với công ơn nầy chúng ta không gì đền đáp nổi.

Theo bước Cha Ông lập đỉnh trời

Cội Nguồn Truyền Thống rạng muôn nơi

Quốc Đạo bừng lên muôn sức sống

Việt Nam ngời sáng mãi đời đời.

 

 

 

CHƯƠNG 7

 

PHẦN 1

 

CẢI CÁCH ĐỔI MỚI HƯỚNG ĐI

 

Để quyết định một vấn đề được coi như là nhạy cảm quan trọng Quốc sư hỏi:

   Thưa Thái Tử, theo tình thế hiện nay, các Vương Quốc ở cận ta đang bành trướng dữ dội và hầu như chúng có âm mưu dòm ngó đất nước ta, trước tình thế nầy Thái Tử có mưu tính gì, kế sách gì đối phó chúng, hoặc gồm thâu chúng mở rộng đất nước ta chăng, thực hiện theo ý tưởng Văn Minh về Quyền Con Người cũng như lấy Dân làm gốc của Thái Tử?

 

Thái Tử đáp:

   Ta cũng có mưu tính, dự tính mở rộng phạm vi nước Xích Quỉ ta, gồm thâu Thiên Hạ nhưng không phải ở thế xâm lược mà ở thế Liên Minh Liên Kết thành một cường quốc. Sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc.

 

   Nếu ở thế xâm lược như xưa nay các Vương Quốc đã từng làm, thắng là Vua thua là giặc, thắng thống trị, thua bị trị, kẻ theo ta thời sống, người chống ta thời chết. Đó là hạ sách ở thế gồm thâu thiên hạ. Dùng Tà Ý phi nghĩa gồm thâu thiên hạ tuy lập lên một cường quốc nhưng sớm tan rã độc lập khó mà kéo dài được.

 

   Muốn lập lên một cường quốc mà ở thế xâm lược gồm thâu thiên hạ thời không ổn. Vì đổ quá nhiều xương máu. Chưa nói đến trở ngại các thế lực Quốc Vương chống trả, mà ngay cả những Bộ Lạc, sống rãi rác ở khắp nơi, dân tộc nào cũng có khí phách anh hùng, thậm chí có nhiều Bộ Lạc vốn yếu hơn các Bộ Lạc nhưng lòng bất khuất thà chết chứ không chịu đầu hàng làm nô lệ. Liều mạng bảo vệ Tổ Quốc, cũng như Bộ Lạc của họ.

 

   Trước đây ông Cha ta mở mang đất đai bờ cõi, theo kiểu du canh du cư, vì thời đó là thời hoang vu con người chưa được khai hóa. Không thuộc quyền sở hửu của dân tộc nào, Bộ Lạc nào, Bộ Tộc nào. Nhân loại còn trên đường Du Canh, Du Cư tuy có người tới trước khai phá nhưng lại bỏ đi nơi khác, ý thức làm chủ đất đai chưa mấy, nhưng hôm nay con người đã có ý thức làm chủ đất đai, dẫn đến tranh giành thuộc địa, mở mang cho phong kiến Địa Chủ Thần Giáo ra đời, sự độc tài độc trị tranh giành đất đai càng ngày càng lớn máu nhượm địa cầu hận chồng lên hận, thù chồng lên thù, sự tàn bạo mỗi ngày một thêm dữ dội, oán thù cứ thế mà chồng chất lên nhau, cảnh cá lớn nuốt cá bé, chẳng khác nào Gà nuốt Dế, Chồn nuốt Gà, người ta săn Chồn xơi thịt. Nếu giả sử gồm thâu được thiên hạ lập lên cường quốc, nhưng tìm ẩn mối nguy lật đổ thôn tính lẫn nhau là rất lớn. Chẳng khác nào dã tràng xe cát biển đông.

 

   Nếu chúng ta dùng bạo lực xâm chiếm đất đai đàn áp các Bộ Lạc, bắt các Bộ Lạc tùng phục mình lập lên một cường quốc hùng mạnh,  dù đó là ý tưởng tốt có chí hướng vĩ đại nhưng không gọi đó là chính đáng được vì ta xâm lược thôn tính các Bộ Lạc ta đang ở thế tà mạnh được yếu thua thắng là Vua, thua trở thành các Bộ Lạc nô lệ chư hầu, Độc Lập khó mà được lâu dài.

 

   Vì thế  chỉ có con đường duy nhất là dùng gươm thiên trí huệ hàng phục các Bộ Lạc thậm chí hàng chục cho đến cả trăm Bộ lạc quy thuận ta liên minh xây dựng lên một cường quốc độc lập hưng thịnh lâu dài hàng nghìn năm. Nếu xây dựng lên một cường quốc dùng bạo lực thắng là Vua, thua buộc quy thuận làm nô lệ dưới sự cai trị Độc Tài Độc Trị của ta. Thời mối nguy tai họa rất lớn vì lòng căm hờn của các Bộ lạc đối với ta to như biển cao như núi, ở hậu lai họ chờ phước phần cũng như thế lực ta suy yếu, hay nội bộ chia rẽ lủng củng. Thời cả trăm Bộ Lạc ấy nổi lên đòi tự trị chống phá lật đổ thể chế độc tài độc trị của ta.

 

   Vì thế muốn xây dựng lên một cường quốc không có một đất nước nào đụng đến hay xâm lược được. Thời con đường xây dựng khai sanh lên cường quốc đó. Phải đi theo một lộ trình Văn Hóa Chính Nghĩa liên kết liên minh sức mạnh cả trăm Bộ Lạc chung nhau bảo vệ Quyền Con Người Nhân Quyền. Lấy Dân Làm Gốc Dân Chủ. Nhà nước cường Quốc đó phải là Nhà Nước Pháp Quyền, nhà nước Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp trên hết. Nhà Nước của Dân do Dân vì Dân. Công Bằng Bình Đẳng. Cả trăm Bộ Lạc sống trong ngôi nhà chung Nền Quốc Đạo. Thời lo gì dân không giàu nước không mạnh độc lập lâu dài.

 

   Nếu chúng ta xâm lược cả trăm Bộ Lạc. Thuận Ta thời sống chống ta thời chết tàn sát họ, thời chúng ta nào phải con người, mất hết lương tri lương tâm còn ác hơn loài Quỉ dữ. Nếu nhân từ để chúng sống sót, thời chúng ta tự nuôi tai họa về sau, chẳng khác nào chúng ta mài đao để đó chờ ngày con dao ấy giết mình, nội giặc là một thứ giặc khó trừ, khó đề phòng, khó lường. Nếu chính sách thông thoáng thời vô tình nuôi các thế lực phản động nhanh lớn, chúng sẽ lật đổ chúng ta. Còn chính sách, giáo điều, điều lệ hà khắc, cấm đón trói buộc dự sống con người dậm chân tại chỗ không những không phát triển được xã hội, lại còn dẫn tới đói nghèo lạc hậu,  đời sống khốn khổ, trăm thứ giặc sanh ra. Giặc Dốt, Giặc Đói, nổi giặc khắp nơi thời Độc Lập kéo dài được sao.

 

   Tổ Quốc non sông dù có lớn đến đâu, dân có đông đến đâu, cũng chỉ là bãi chiến trường, tranh giành quyền lực lật đổ nhau, chém giết nhau mà thôi máu đổ khắp nơi thây phơi chật đất. Xâm lược chiếm đoạt đất đai thôn tính các Bộ Lạc hay các nước nhỏ lập lên cường quốc, chiếm hữu nô lệ lập lên xã hội, thống trị cường hào ác bá, độc tài độc trị. trước mắt là có nhưng sau đó thời như không, vì dùng bạo lực lập lên cường quốc chiếm Thiên Hạ nhưng không được lòng Thiên Hạ, đó là mối tai họa biến loạn về sau Độc Lập khó mà lâu dài. Một lớp vỏ bạo lực bó buột Thiên Hạ về một mối, khác nào quả pháo chờ cơ hội là nổ, có Thiên Hạ trong tay nhưng lòng Thiên Hạ đã mất, Thái Bình Độc Lập ắt chẳng đặng bao lâu, non sông Tổ Quốc sẽ đổi ngôi thay chủ. Lập lên một Cường Quốc với bao tìm ẩn nguy cơ như thế, thời lập lên để mà làm gì. Mở màng cho hàng loạt tham quan ra đời làm lên bao chuyện xấu xa tội lỗi. Đục khoét của nhà nước, vơ vét của dân tệ nạn xã hội khắp nơi.

 

   Cơ nghiệp lập lên bằng bạo lực, không chân chính, rốt cuộc rồi cũng bị các thế lực phản loạn, từ trong giai cấp bị trị, giai cấp nô lệ nổi lên đánh bại. Cả đời cực khổ chiến tranh gồm thâu thiên hạ nhưng rốt cuộc được những gì, mang tiếng ác cũng như gieo hậu quả về sau. Ngôi vị Quốc Vương dùng bạo lực chiến tranh cướp lấy tạo lập lên chỉ là con Cáo già đầu trộm đuôi cướp tham lam tàn bạo, có hay ho gì, không khéo sa đọa xuống Địa Ngục linh hồn khổ mãi nữa đằng khác.

 

Thái Tử nói:

   Chỉ có một con đường duy nhất chinh phục Thiên Hạ, bằng con đường liên minh các Họ Tộc, Bộ Tộc, Bộ Lạc, liên minh các nước thành một khối thống nhất theo một con đường Văn Hóa chính nghĩa, không ngoài quyền con người và lấy dân làm gốc Nhân Quyền Dân Chủ lập lên một đất nước văn minh cường quốc Công Bằng Bình Đẳng ai ai cũng đươc sống trong Quyền Tạo Hóa ban cho. Tất cả chung trong một nền Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, quyền sở hửu cá nhân, quyền sở hửu tập thể được thể hiện đầy đủ.

 

   Cuộc sống mà ai ai cũng có quyền làm chủ xã hội, làm chủ non sông Tổ Quốc, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp ,Đạo pháp truyền thống anh linh dựng nước và giữ nước. Và cũng chỉ có Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp mới thật sự đem lại cuộc sống tự do ấm no hạnh phúc.

 

   Ở nhà nước Pháp Quyền: Nhân Quyền Dân Chủ. Vương, Quan chỉ là đầy tớ trung thành của Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp công bằng bình đẳng xã hội. Bảo vệ Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp. Thi hành Đạo pháp, Hiến pháp, Luật pháp, thực thi Công Lý Bình Đẳng, bảo vệ ích lợi chung, cũng như lợi ích lợi riêng của mỗi người dân.

 

   Xã hội Công Bằng văn minh, là xã hội Thần Thánh. Xã hội chân thiện tiến tới hoàn mĩ. Xã hội Thiên Đàng cực lạc trần gian.

 

Quốc sư Thục Lục càng lúc càng sáng mắt ra hội ngội được chân lý trị quốc an dân lập quốc Chính Nghĩa trong lòng vô cùng vui mừng. Nghĩ có thể Thái Tử sẽ làm nên nghiệp lớn và cũng chỉ có Bậc Đại giác ngộ mới tìm ra hướng đi Thần Thánh nầy.

(Và thật vậy 79 năm dựng nước Văn Lang 2.622 năm thế hệ con cháu của Vương, Quan kế tục giữ nước, xây dựng lên cuộc sống mỗi ngày mỗi thêm phồn thịnh tự do ấm no hạnh phúc. Cả dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương là 2.701 năm, trên khắp thế giới thời đó cũng như thời nay chưa có đất nước nào kéo dài Độc Lập dài đến thế). Chỉ có nền Văn Minh Hiếp Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Quốc Đạo Văn Lang mới được như vậy).

 

Đây nói về vị Quốc sư tài năng Thục Lục, tự biết mình không còn đủ tài để dạy Thái Tử nữa nên nói với Quốc Vương Kinh Dương Vương rằng:

   Khắp nước Xích Quỉ này không còn ai là đủ tài dạy Thái Tử nữa, và thật vậy thật ra tôi cũng chỉ là học trò của Thái Tử mà thôi, vì Thái Tử không phải người phàm hay Thánh Thần Đầu Thai mà là Chí Tôn Thiên Đế đầu thai. Đắng thừa hành di chí Cha Trời. Đấng Cứu Thế. Hàng triệu năm mới xuất hiện. Nghe Thái Tử thuyết giáo tôi đã ngộ ra một điều, con người có quả tim Nhân Loại, mới có đủ khả năng diều dắc Nhân Loại mà thôi. Còn quả tim vì quyền lực vì danh lợi vì cái riêng ta quá lớn, thời khó mà dìu dắt nhân loại đến bờ hạnh phúc. Cũng từ đây tên tuổi Thái Tử vang lừng hơn nữa, làm chấn động nước Xích Quỉ cùng các nước lân cận.

 

Kinh Dương Vương tuy tuổi đã cao nhưng Tiên phong Đạo Cốt vẩn trẻ trung uy nghi. Nay nghe Quốc sư luôn luôn miệng khen Thái Tử, đề cao tột bực, thời lấy làm vui vẻ sung sướng không gì bằng, cuộc đời Đế Vương coi như là thỏa mãn.

 

PHẦN THƯA HỎI

 

Hỏi: Thế nào là Họa, Phúc của xã hội?

 

Đáp: Con người là chủ của xã hội vì vậy họa hay phúc đều do con người, xã hội Thiên Đàng hay xã hội Địa Ngục, điều do con người quyết định. Nếu chúng ta biết hướng Thiện, kết tụ duyên lành, truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn, Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp Công Lý xã hội. Luật pháp xã hội nuôi dưỡng tinh thần Đạo Đức dân tộc, đến tận mỗi người dân, nân cao trình độ nhân thức Đạo Đức xã hội. Thời tương lai xã hội chúng ta mới có kết quả tốt đẹp, xã hội Chân Thiện Hoàn Mĩ. Còn nếu chúng ta tán tận lương tâm làm lên bao điều tội lỗi, xem thường Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo pháp truyền thống anh linh xã hội. Phá hoại kỷ cương phép nước nhận giặc làm Cha. Thời chúng ta tự tạo ra cho xã hội chúng ta một xã hội đen tối, xã hội nhà tù, xã hội Địa Ngục. Sống chẳng yên mà chết cũng chẳng đặng yên.

 

Hỏi: Thế nào là nhận thức Bình Đẳng.

 

Đáp: Đến với Cội Nguồn, hòa mình vào dòng đời xã hội, tuân theo và lam theo Đạo pháp truyền thống dân tộc, Hiến pháp, Luật pháp xã hội thời nhận thức được ngay sự Bình Đẳng con người và sự Bình Đẳng xã hội. Nhân Loại ai ai cũng như nhau, từ một gốc mà ra, tất cả đều là Con Rồng Cháu Tiên, mỗi Tiểu Linh Hồn từ Đại Linh Hồn vũ trụ tạo ra, ví như nước sanh ra bọt nước, tất cả bọt nước đều Bình Đẳng vì tất cả bọt nước từ nước mà ra. Xã hội Bình Đẳng là xã hội Đạo pháp công bằng, Hiến pháp công bằng, Luật pháp công bằng, quả tim Công Lý xã hội, không thiên vị ai, không thân cận ai, chung cùng một nhịp đập Bình Đẳng, vì vậy quyền Bình Đẳng, nhân quyền của con người được bảo vệ, tôn trọng thể hiện đầy đủ, bất khả xâm phạm. Nếu xâm phạm là trái ý trời. Đối với kẻ chuyên quyền Độc Quyền Độc Tài tàn bạo, thời coi như chính họ đã đánh mất nhân quyền Bình Đẳng của chính họ sẽ bị Cộng Đồng xã hội nhân quyền lên án.

 

Hỏi: Thế nào là quan hệ tôn trọng Chủ Quyền Độc Lập?

 

Đáp: Không xâm phạm lẫn nhau về thuộc Địa cũng như về chính trị, đối đãi nhau trên phương diện Bình Đẳng, tôn trọng lẫn nhau, làm bạn đối tác kinh tế hai bên cùng có lợi. Tôn trọng bạn có nghĩa là tôn trọng mình, xâm phạm chủ quyền nước bạn là tự đánh đổ chủ quyền nước mình.

 

Hỏi: Sao gọi là Khôn? Sao gọi là Dại?

 

Đáp: Người khôn không bao giờ nghịch lại Thiên ý của Trời, không bao giờ chống phá Đạo pháp truyền thống dân tộc, chống phá Hiến pháp, Luật pháp công bằng xa hội, vì chống phá như vậy nhất định sẽ sa chân vào ác Đạo, Quỉ Đạo, súc sanh Đạo, Địa Ngục Đạo, thời coi như đã sa vào Thiên La Địa Võng trùng trùng tai họa. Những kẻ tự cho mình siêu đẳng nhưng lạc mất Cội Nguồn, khác nào con thơ Lạc Mẹ Lạc Cha, chơi vơi giữa chốn hồng trần lặng hụp trong bùn nhơ cặn bã xã hội.

 

Hỏi: Hiến pháp có mấy loại?

 

Đáp: Hiến pháp xã hội có nhiều loại nhưng có ba thứ Hiến pháp được thông dụng ở đời.

1: Là Hiến pháp dựa trên quân Chủ lập Hiến tạo ra.

2: Là Hiến pháp dựa trên Dân Chủ lập Hiến tạo lập ra.

3: Là Hiến pháp căn cứ theo Văn Hóa Cội Nguồn truyền thống dân tộc. Nhân quyền, Dân Chủ, Công Bằng Bình Đẳng. Công ước xã hội. Chủ quyền Độc Lập. Hiến pháp dựng nước và giữ nước nhà nước Văn Lang. Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Một Hiến pháp mà không một đất nước nào có, ngay cả thời văn minh hiện đại bây giờ. Hiến pháp của Chủ Nghĩa Đại Đồng Công Bằng Bình Đẳng. Tình nòi giống, nghĩa Đồng Bào chung nhau một Cộng Đồng xã hội.

*********

 

Hết Phần 1 chương 7 mời xem tiếp phần 2 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh.

Vinh thay Nam Việt, Việt Nam

Trổ hoa phồn thịnh đăng đàn công danh

Gió xuân tràn ngập quê hương

Non sông Tổ Quốc bình yên đời đời

Rồng Tiên tỏa sáng ngời ngời

Năm châu bốn biển hướng về Việt Nam.

 

 

 

CHƯƠNG 7

 

PHẦN 2

 

NỖI LO XA KINH DƯƠNG VƯƠNG

 

Một hôm Kinh Dương Vương cùng con trai là Thái Tử Hùng Lan dạo chơi nơi chốn hoa viên, để thử tài Thái Tử cũng như xem con có ý niệm gì tương lai non sông Tổ Quốc khi tình hình mỗi ngày mỗi thêm phức tạp diễn biến xấu.

 

KINH DƯƠNG VƯƠNG hỏi:

   Này con. Con nhận xét thế nào về nước Xích Quỷ ta, mạnh yếu ra sao? Có phải là một đất nước Hùng Mạnh, rộng lớn, có đất nước nào hơn đất nước ta không? Cha muốn nghe ý kiến nhận xét của con.

 

Thái Tử thưa Cha:

   Nước Xích Quỉ ta vốn nổi tiếng từ lâu. Một đất nước vừa giàu có vừa hùng mạnh, không có một Vương Quốc nào xa gần sánh kịp. Với nền văn minh lúa nước, văn minh thông Điệp Hội Họa. Đất đai rộng lớn màu mở phì nhiêu, dân đã đông, tướng đã giỏi, lại thêm ấm no Thịnh Trị hàng nghìn nghìn năm. Nước Xích Quỉ ta không những mạnh về tinh thần mà còn mạnh về vật chất. Hiện nay và trăm năm tới, chưa có đất nước nào hơn được đất nước ta đâu. Tuy rằng xung quanh nước Xích Quỷ ta chiến tranh, tranh giành thuộc địa đã nổ ra càng ngày càng dữ dội, cảnh cá lớn nuốt cá bé xảy ra thường xuyên ở các Bộ Lạc. Lại thêm ở bên kia bờ Bắc, Bắc sông Trường Giang đã hình thành lên nhiều Vương Quốc hùng mạnh, gần theo kịp Vương Quốc ta. Và nghe đâu các Vương Quốc hùng mạnh ấy có ý dòm ngó nước ta, đâu cũng là mối lo cho nước ta về sau.

 

   Đất đai màu mở với hai nền văn minh độc bá thiên hạ, nền văn minh lúa nước, nền văn minh giao tiếp hội họa là miếng mồi ngon cho bao kẻ tham lam đầy dã tâm, tính mưu tính kế, có cơ hội là nuốt nước Xích Quỷ ta trong tương lai là điều không tránh khỏi.

 

   Nước Xích Quỷ ta tuy rộng lớn nhưng không phải là tường đồng vách đá, khó mà ngăn chặn được lòng tham của con người, nhất là con người đã biến thành Lang Sói ác Quỉ.

 

   Trước tình thế dù cho con Hổ to lớn mạnh đến đâu mà xung quanh con Hổ toàn là Cáo Sói, đầy mưu mô xảo quyệt. Một con chúng không làm gì được nhưng cả bầy háo chiến tấn công con Hổ làm cho con Hổ kiệt sức, cuối cùng con Hổ cũng bị hạ gục. Chúng giành nhau ăn thịt mỗi con mỗi miếng, thời còn gì nước Xích Quỷ ta. Miếng mồi hấp dẫn, họa phúc khó lường, một đất nước quá béo bở, không lo xa cũng không được và con cũng đã tính tới điều này, trong tương lai nhưng con vẫn chưa tìm ra cách đối phó.

 

KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn con đầy thương yêu hết lòng khen ngợi, con tuy còn trẻ nhưng đã biết lo xa, phòng bệnh hơn chữa bệnh, chủ động vẫn hơn là bị động. Không thể tới đâu hay tới đó, nước tới chân mới nhảy. Người giỏi cờ cũng phải tính trước vài ba nước đi. Nhà kinh tế, chính trị, quân sự tài, phải tính trước 10 năm 20 năm thậm chí cả 100, 1000 năm.

*********

 

Hết Phần 2 chương 7 mời xem tiếp phần 3 chương 7 Long Hoa Mật Tạng Kinh. Bộ kinh thuộc hàng tối cao Đại Thừa. Bộ kinh không những tối cao của sự linh thiên. Mà còn là tối đạo luật xã hội cũng như đạo luật vũ trụ. Chỉ cần hiểu một câu một chữ trong kinh thời cũng  đã trang bị cho mình đi tới con đường vinh quang. Huống chi khen ngợi yêu mến Long Hoa Mật Tạng. Thời coi như đã chuyển đổi số mạng, không khác gì cá Chép hóa Rồng, không bao lâu hiển Thánh ngay tại trần thế.

 

 

 

CHƯƠNG 7

 

PHẦN 3

 

DUY VẬT DUY TÂM

 

KINH DƯƠNG VƯƠNG vẫn giữ một thói quen là giữa tháng đến ngày rằm Trăng tròn đến lầu vọng Nguyệt để ngắm Trăng nghiền ngẫm Đạo Pháp tu thiền luyện khí. Lần này có khác Kinh Dương Vương dẫn theo Thái Tử, hai cha con Kinh Dương Vương vừa đi vừa nói chuyện. Thái Tử là người nhạy cảm, lại hay chú tâm quan sát cảnh vật. Thái Tử nghĩ mới trong nháy mắt, mọi cảnh vật hầu như thay đổi hoàn toàn. Mặt Trời vừa lặng, màn đêm buông xuống rất nhanh, Lâu đài Cung Điện, cảnh vật non sông ngập chìm trong màn đêm hết thảy.

 

Cảnh chiều tà nhìn quê hương Tổ Quốc xinh đẹp làm sao, còn giờ đây quê hương Tổ Quốc chỉ là màn đen u tối, sáng và tối hai cảnh giới khác biệt nhau. Cảnh Thiên Đàng và cảnh Địa Ngục. Một cảnh giới đầy sức sống muôn màu muôn sắc đẹp làm sao, người thi nhau thọ hưởng, chim thi nhau ca hát, Thú Cầm gầy tình gầy bạn, cỏ cây khoe trái, khoe hoa. Lũy tre, đồng ruộng mái lá nhà tranh rộn tiếng cười, cánh Cò trắng Lã lượng bay vui, đàn Bò, đàn Trâu vui ngúc ngoắt. Mục Đồng thổi sáo cánh Dều bay, cảnh quang vui đẹp tâm Hồn đầy sức sống.

 

Còn cảnh tối mê lầm lạc họa tai bay. Nhìn cảnh đêm đen Thái Tử cảm thấy nổi buồn xa xăm, cô đơn lạnh lẻo như đang ở cõi Âm Cung. Như ẩn chứa bao điều tai họa chẳng lành thầm bí. Phải chăng cõi nhân gian là cánh cửa để bước vao cõi Thiên Đàng, cũng như cõi Địa Ngục âm phủ. Phải chăng sáng và tối đã nói lên một điều. Ánh sáng Chính Nghĩa tắc đi không còn, thời u minh bóng tối trùm lấy nhân gian như báo hiệu chiến tranh sẽ xảy ra, mở rộng lan tràn khắp Địa Cầu. Ánh sáng Tâm linh Chính Nghĩa đã tắc, thời thế giới Cáo Sói Rắn Rít hiện ra, nhân loại đi vào đại nạn khốn khổ, cuộc sống đe dọa từng ngày.

 

Thái Tử chìm đắm trong suy nghĩ, thời ánh Trăng cũng đã lên từ lúc nào, ánh Trăng êm dịu hiền từ như người Mẹ quê hương ôm lấy những người con lạc lỏng trong đêm tối. Ánh Trăng chiếu xuống lầu đài Cung Điện sơn phết một màu bạc nhưng cũng để lại loan lổ những chỗ đen tạo ra do vật cản ánh sáng. Những cảnh tượng loan lổ chỗ đen ấy như nhắn nhủ với con người rằng. Thế lực đen  tội ác ẩn mình sau lớp thiện, ánh Trăng không thể diệt nỗi chúng, và chúng cản mình che khuất ánh Trăng để bóng đen tồn tại hiện ra. Và chỉ có ánh Mặt Trời thời chúng mới chịu tan biến hoặc ẩn mình nơi hang cùng ngõ hẻm.

 

KINH DƯƠNG VƯƠNG nhìn Thái Tử lúc nào cũng trầm tư như vậy. Liền buông tiếng cười thở dài, tiếng thở dài của người Cha đã đánh động tư duy suy tưởng làm cho Thái Tử giật mình, mới hay mình đã đến lầu vọng Nguyệt từ lúc nào.

 

Kinh Dương Vương nắm tay Thái Tử như truyền hơi ấm nói lên rằng:

   Có Cha đây, Cha sẽ là ngọn Thái Sơn che chở cho con lúc Đông về.

 

Thái Tử được Cha dắt lên lầu vọng Nguyệt, cặp ghế Rồng ghế Phụng như cũng đã biết mình có bổn phận nâng đở Cha con Kinh Dương Vương yên nghỉ hòa mình vào cảnh giới Đêm Trăng. Xa xa tận chân Trời vừng hào quang dịu mát phát ra từ vần Trăng tròn trịa nhô lên khỏi khóm tre già. Cảnh vật thi nhau im lặng tận hưởng ánh Trăng êm ã, sau một ngày vật vã với cái nắng chang chang. Ánh Trăng đến ánh Trăng đi không mang theo sự vui buồn của nhân gian, vô tư trong sáng chẳng nhiễm chút bụi trần nào cả.

 

Nhưng con người thì khác hẳn, sanh ra ở đời đắm chìm gian ác, tham lam ganh gét, hận thù làm tâm Hồn bẩn nhơ, làm hôi hám xã hội. Nhưng rốt cuộc thời được những gì, tất cả chỉ là con số 0.

 

Kinh Dương Vương lại nghe tiếng thở dài Thái Tử. Sự việc ở đời rốt cuộc rồi cũng thế, cuộc đời khác nào vần Trăng, lúc thời mờ lúc thời tỏ, khi tròn khi khuyết, khi đầy khi vơi. Thiên Nhiên vẩn còn chơi trò biến ảo, huống chi là cuộc sống con người luật tuần hoàn cứ lặp đi lặp lại, hết mưa rồi nắng, hết ngày tới đêm. Xuân Hạ Thu Đông cứ luân phiên chuyển hóa, hết xuân rồi lại tới xuân, xuân đi rồi xuân lại về. Chỉ có không gian lúc nào cũng rộng lớn vẩn thế, không đi không đến như như tự tại. Tuy ở sát người thế mà không mấy ai với tới cả.

 

Thái Tử nghĩ chốn nhân gian này khó tìm ra hạnh phúc vĩnh cửu vì trần gian chỉ là nơi cõi tạm. Những thứ hạnh phúc tạm thời, chóng đến rồi cũng chóng đi, chóng sum hợp rồi cũng chóng chia ly. Mọi sự ở đời hể có gieo thời có hưởng, họa hay phúc đều do con người triệu nó đến, tất cả đều có căn có cội.

 

Kinh Dương Vương nhìn con trầm tư suy nghĩ không hiểu con ta nghĩ những gì, sao lúc nào cũng trầm lặng suy tư như vậy, khổ cho con ta quá.

 

Thái Tử bổng lóe lên ý nghĩ liền hỏi Cha:

   Cha có từng nghe đến Quả tim Nhân Loại chưa? Cha có từng nghe đến bất chiến tự nhiên thành chưa?

 

Kinh Dương Vương vô cùng kinh ngạc, vì đây là lần đầu tiên nghe câu hỏi lạ, lạ đến nổi Kinh Dương Vương phải ngớ người ra.

 

Kinh Dương Vương nói:

   Con hỏi gì lạ vậy ở đời ai không có quả tim.

 

Thái Tử trả lời:

   Thưa Cha! Không phải con hỏi Quả tim con người mà ai ai cũng có, mà con nuốm hỏi đến Quả Tim xã hội. Quả Tim truyền thống. Quả Tim chính nghĩa của chủ nghĩa.

 

Kinh Dương Vương nghe con nói như thế thời càng thêm kinh ngạc không biết trả lời sao.

 

Thái Tử nhìn Cha nói:

   Quả Tim Nhân Loại là Quả tim vì người mà sống, không phải vì mình mà sống. Quả tim vì mình mà sống ai ai cũng có. Còn Quả Tim vì nhân loại mà sống thời rất hiếm. Quả tim xã hội là Quả tim của mọi người, của mọi tần lớp nhân dân, Quả Tim Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp khi quả tim ấy đập lên thời toàn xã hội như được hồi sinh trở lại, đời sống xã hội tươi vui, đâm chồi nẫy lộc đơm hoa kết trái. Thái bình Độc Lập tự do hạnh phúc. Quả tim ấy mang hơi thở truyền thống Cội Nguồn dòng máu Cha Ông làm cho Con Cháu hiện tại đoàn kết muôn người như một. Làm cho nhân loại đâm chồi Chính Nghĩa, nở hoa tự do, kết quả hạnh phúc. Nếu xã hội non sông Tổ Quốc nào toàn dân đều chung sống cùng một quả tim ấy. Quả Tim công bằng bình đẳng văn minh, thời còn lo gì không sống trong cảnh thái bình an lạc. Khi nhân loại có Quả Tim vì người không vì mình, mỗi nhịp đập của quả tim ấy là mỗi lần đem mùa xuân đến cho cuộc sống xã hội, đơm hoa kết trái sang giàu làm đẹp cho quê hương Tổ Quốc non sông.

 

Kinh Dương Vương nghe con nói như thế, thời kinh ngạc đến sửng sốt hỏi lại:

   Có Quả tim đó thật sao.

 

Thái Tử nói:

   Thưa Cha! Chỉ có Quả Tim vì Nhân Loại mới cứu nổi Nhân Loại. Quả tim của sự bất chiến tự nhiên thành. Quả tim Nhân Loại là quả tim công bằng bình đẳng  không thuộc ở cá nhân riêng mình mà quả tim chung cho toàn xã hội. Nhân loại khổ là Quả tim ấy khổ, nhân loại vui là Quả tim ấy vui. Quả Tim luôn phục vụ cho cuộc sống nhân loại con người.

 

Kinh Dương Vương nhìn Thái Tử đầy vẻ thương yêu  nói:

   Không có Quả tim đó đâu con. Hiện nay trên toàn thế giới ngoài quả tim con người ra  những bậc Vương Chúa họ còn có Quả Tim độc tài độc trị, làm gì có quả tim nhân loại.

 

Thái Tử nói:

   Thưa Cha! Làm Quốc Vương mà chỉ biết về mình, gia đình mình, dòng Họ mình, Tổ Quốc của mình thời vị Quốc Vương ấy chưa có Quả tim Nhân loại xã hội. Lúc nào cũng nói vì dân vì nước, vì nhân loại thế giới nhưng thật ra tất cả cũng chỉ là cũng cố quyền lợi cho riêng của mình mà thôi.

 

Thái Tử lại nói:

   Vị Quốc Vương có Quả tim Nhân Loại, thời dân chúng chính là máu thịt của người. Nhân loại là anh em một nhà Dân chúng bị tổn thương thời chính ngài tổn thương, nhân loại khốn khổ thời người khốn khổ. Người có Quả tim vĩ đại ấy cứ mỗi nhịp đập là mỗi công bằng văn minh đem lại cuộc sống yên bình cho nhân loại.

 

Kinh Dương Vương như chợt hiểu nói:

   Con muốn nói đến Quả tim của Chuyển Luân Vương sao ? Chỉ là huyền thoại thôi con.

 

Thái Tử nói:

   Không phải huyền thoại đâu Cha. Những ai hết lòng thương yêu nhân loại, thương yêu dân chúng như chính thương yêu bản thân mình người đó chính là Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Muốn thế giới yên bình Cha ạ, chỉ có Quả tim Chuyển Luân Vương xuất hiện thời nhân loại mới được giải cứu thoát khổ.

 

Kinh Dương Vương nói:

   Chuyển Luân Vương chỉ là truyền thuyết không có thật đâu con. Không có cảnh bất chiến tự nhiên thành. Lập lên đất nước Tổ Quốc mà không cần tranh giành Quyền lực, không cần đụng đến gươm Đao giáo mác, chỉ có nụ cười và lời nói thay cho máu đổ đầu rơi không đánh mà thắng Thái Bình mãi mãi là chuyện chỉ có trong mơ mà thôi.

 

   Nếu quả thật có Chuyển Luân Vương xuất hiện thời bấy giờ, cái thời mà mạnh được yếu thua thắng làm Vua thua trở thành nô lệ thời Quả tim Nhân Loại Chuyển Luân xã hội ấy cũng đành bó tay không bao giờ dập được ngọn lửa tham lam tàn bạo đang bùng cháy dữ dội khắp Vương, Chúa đất nước, lại nữa vì trình độ dân trí hiện nay quá Lạc Hậu, lại bị các Quả tim ác Quỉ độc tài độc trị thống trị rồi, không có cảnh  tự do mưu cầu hạnh phúc đâu.

 

   Hiện nay vận mệnh Quốc gia, non sông Tổ Quốc phải hùng mạnh có người chèo lái vững vàng, vì tình thế nhân loại hiện nay đang nỗi cơn tham lam tàn bạo sóng bạo lực dữ dội, mình không đánh họ, thời họ cũng sẽ đánh mình.

 

Kinh Dương Vương lại nói:

   Từ thời Hồng Đế tới thời Viêm Đế Thần Nông xuống tới thời Kinh Dương Vương Ta, kéo dài hàng triệu triệu năm với truyền thống lâu đời ấy, tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng không có một dân tộc nào sánh kịp nhưng không có gì là tuyệt đối mãi. Gần trăm năm nay, tình thế có phần chuyển đổi, từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần giáo, giáo Điều và Điều lệ cũng theo đó vượt lên chặt chẽ hơn. Cùng lúc ấy phái Duy vật giáo cũng nổi lên làm chao đão tình thế sự của nhiều Vương Tộc trong đó có nước Xích Quỷ ta.

 

   Duy vật giáo suy tôn khoa học Duy Vật, luận chứng họ ca ngợi nền văn minh lúa nước cũng như nền văn minh hội họa giao tiếp thông điệp của ta, đưa nhân loại chuyển sang giai đoạn mới cũng như ca ngợi nền văn minh Tơ Tằm dệt lụa ở bên kia bờ Bắc sông Trường Giang, đem lại thật sự hửu ích cho con người. Còn phái Thần giáo thời chủ thuyết Tôn thờ Thần Linh, vì Thần Linh là chủ của thế giới phàm trần và bùa chú là một minh chứng hửu hiệu. Những ai chống trả lại liền bị Thần Linh giết chết.

 

   Hai giáo phái ấy mỗi ngày một lớn mạnh làm chao đảo tình hình phương Đông. Từ môn phái độc tài Thần giáo chuyển sang phong kiến độc tài Thần giáo, trường phái Duy vật bị phong kiến độc tài Thần giáo đánh bại. Nên Đại đa số học giả giáo sĩ  phái Duy vật không còn trụ vững nơi phương Đông. Làm thuyết khách đi lần về phương Tây. Khi ấy phương Tây, trường phái phù thủy đang thịnh hành, là chủ nhân của giai cấp, chiến hữu nô lệ và tiến tới thời cực thịnh của chiến hửu nô lệ nguyên thỉ. Và nghe đâu trường phái Duy vật được các phù thủy trọng dụng và nổi lên ở phương Tây xưng hùng xưng bá. Giai cấp phong kiến độc tài duy vật Địa Chủ  ra đời ở Phương Tây mỗi lúc một hùng mạnh và đã lan truyền xuống phương Đông, nhất là ở các Địa phận Trung Đông. Lúc bấy giờ ở Trung Đông từ phong kiến độc tài Thần giáo đột phá đi lên, có nơi đã chuyển sang phong kiến độc tài Vua, Chúa thống trị như các nước hùng mạnh xa gần nước Xích Quỷ Ta. Vì thế giáo điều, điều lệ cũng nâng lên một tầm cao mới.

 

   Phong kiến độc tài Vua, Chúa, khác với Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Phong Kiến độc tài Thần Giáo lấy giáo điều Thần Linh cai trị dân chúng. Có một số nước lạc hậu mê tín dị đoan.

 

   Phong Kiến độc tài Vua, Chúa lấy ý kiến triều Thần làm căn bản  đưa ra cách thức trị dân. Có nghĩa Vua Chúa nghe theo Triều Thần, không phải nghe theo giáo điều Thần Linh, như Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Ở khu vực Trung Đông này đang lan tỏa rất nhanh, hình thành lên nhiều thế lực Phong Kiến độc tài Vua Chúa mở ra nhiều nền văn minh mới, xóa sổ lầm độc tài Thần Giáo, cạnh tranh với Phong Kiến độc tài Thần Giáo. Và chiến tranh tranh giành thuộc địa ở khu vực Đông Á này thảm khốc vô cùng, chiếm hửu nô lệ thảm khốc vô cùng.

 

Nghe Cha kể lại sự biến động xã hội, trải qua hàng trăm năm, hàng nghìn năm có thể còn lâu xa hơn nữa, kiến thức của Cha quả thật hơn người Thái Tử lấy làm khâm phục. Có lẽ từ nơi người Cha thông thái dày kinh nghiệm này mà mình tìm thấy cái mình muốn tìm cũng nên vì nghĩ thế nên.

 

Thái Tử hỏi:

   Thưa Cha có phải con người ngày xưa họ thờ Cầm Thú như thờ Rắn, thờ Heo, thờ Trâu, thờ Bò, thờ Cọp, thờ Ngựa, thờ Cá, thờ Cây, thờ Đá có thật không?

 

Kinh Dương Vương đáp:

   Cần gì thời xưa mà ngay cả thời bây giờ cũng còn nhiều. Ở thời tiền sử có một số dân tộc lạc hậu, họ thấy loài Cầm Thú  có yêu thuật họ suy tôn là Thần, rồi tôn thờ cúng bái nghe theo và làm theo những gì Thần Thú, Thần Cầm truyền dạy. Trở thành cuồng tín dị đoan làm hại cho bản thân, gia đình con cái kéo dài hàng triệu triệu năm. Nhưng lần lần các dân tộc tiến bộ, nhận thức được con người là chủ của muôn loài Cầm Thú, không còn sợ các loài Cầm Thú nữa thậm chí còn giết chết Thần Thú, Thần Cầm, những Thần hung hăng háo sát, không những thế mà còn săn bắn loài cầm loài thú to lớn  để lấy thịt lấy da phục vụ cho con người, đời sống con người vì đó tiến lên một mức cao hơn. Nhân Loại tiến bộ, loại bỏ lần tôn thờ Thần Thú, Thần Cầm, chuyển sang giai đoạn thờ Thần Linh con người khám phá ra các Thần Linh con người là do sự tiến bộ tu luyện của con người mà ra, Linh Hồn tiến hóa lên các vị Thần như Thần Thổ Địa, Thần Núi, Thần Sông, Thần Biển, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Lửa. Có những Linh Hồn tu luyện đạt đến đỉnh cao trở thành Thần Mặt Trời làm con của Trời. Những dân tộc văn minh thờ Thần Mặt Trời như Vương Tộc Long Giao ngoại của con.

 

   Không nói chi đến Vương Tộc Long Giao, mà ngay cả Vương Tộc Kinh Dương Vương ta cũng thờ Thần Mặt Trời. Thần hạnh phúc, Thần quyền năng những vị Thần có công hữu ích cho con người những nước lớn ở Phương Bắc như Đế Minh, Đế Lai, Đế Nghi thờ Thần Mặt Trời. Sự thờ cúng tế lễ của một số nước văn minh tiến bộ, đời sống con người vì thế phát triển. Các Triều Thần của nhiều nước cũng theo đó mà phát triển văn minh hơn. Sự tôn phong sùng kính lạy các Thần Linh con người cũng đi vào trật tự kiến lập lễ nghi, lễ nghĩa, lễ giáo, lễ vật đi vào đời sống xã hội con người. Nhân phẩm con người nhận thức theo đó ngày càng thiết thực phong phú hơn phân biệt trở thành Phong Kiến độc tài Thần Giáo, tiến tới Phong Kiến độc tài Vua Chúa. Đi vào trật tự, Quân, Dân, Cha Con, Chồng Vợ, Họ Tộc, xốm làng, xã hội Tổ Quốc vì thế nhân luân rõ ràng hơn cụ thể hơn. Có thể nói giai đoạn Phong Kiến độc tài Thần giáo đã đến thời cực thinh. Và chuyển sang Phong Kiến độc tài Vương, Vua, Chúa.

 

   Trường phái Duy vật tuy ra đời sau Thần giáo hàng triệu năm, hiện Thân của chủ thuyết chính trị độc tài độc trị, đối lập lại giáo trị độc tài độc trị Thần giáo, nói chung trường phái duy tâm Thần giáo.Trường phái Duy vật biện chứng đều rất lợi hại vì có cái lý đứng vững của nó làm cho con người dễ bị thuyết phục nghe theo làm theo.

 

   Có lần Cha cho mời hai trường phái đến để nghe thuyết giáo. Chủ thuyết Thần giáo phát triển xã hội theo hướng tinh thần, giáo dục con người theo giáo Đạo lời dạy của các Đấng Thần Linh.

 

   Chủ thuyết Duy vật giáo, phát triển xã hội theo đường lối phát triển đường hướng khoa học, đất nước nào làm chủ khoa học nhiều, thời đất nước đó sẽ thống lĩnh thiên hạ.

 

   Có một điều con nên hiểu, phái Duy vật là nhốm phái tôn thờ các nhà phát minh khoa học, Họ không phải là nhà khoa học mà họ chỉ là con chiên sùng kính khoa học mà thôi. Cũng như các phái Thần giáo, họ không phải là các vị Thần mà Họ chỉ là con chiên sùng kính các vị Thần mà thôi. Xét cho cùng hai trường phái này chỉ là hai trường phái Duy Tâm và Duy vật, họ chỉ là cái vỏ của Thần Linh và các nhà khoa học, cái lớp vỏ bọc phô trương vô cùng lợi hại của hai trường phái thi nhau ăn sâu vào xã hội con người. Cha là người cẩn thận vì quá hiểu rõ chúng vì chúng chưa phải là các Thần Linh, cũng như các nhà khoa học. Chỉ là trường phái Đấu Đá nhau cạnh tranh nhau mà thôi. Cha không tiếp nhận hai trường phái duy tâm, cũng như duy vật. Vì xưa nay truyền thống Anh Linh dân tộc ta chỉ tôn thờ Thần Mặt Trời con của Trời lấy Đạo Đức Nhơn Luân Hiếu Nghĩa, tôn thờ Ông, Bà, Cha, Mẹ, Tổ Tiên làm đầu, bảo vệ non sông Tổ Quốc làm trọng mà Ông Cha Ta hàng nghìn năm xây dựng nên.

*********

 

Hết phần 3 chương 7 mời xem tiếp phần 4 chương 7 Long Hoa Mật Tạng. Long Hoa Mật Tạng là bộ kinh, kinh văn thậm thâm sâu xa vị diệu ẩn tàng không biết là bao nhiêu là đạo pháp Chính Nghĩa. Ngay thời đại bây giờ cũng khó mà hiểu cho thấu đáo được. Huống chi là cách đây năm nghìn năm, nếu không được Quốc Tổ truyền dạy giải thích thời khó có ai hiểu nỗi một câu. Long Hoa Mật Tạng Kinh là bộ kinh Vua các Bộ Kinh. Bộ kinh không những trị quốc an dân, mà còn trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Bộ Kinh không gì quý hơn nữa. Người nào có trong tay Bộ Kinh nầy, đọc tụng hiểu được kinh văn thời coi như người đó đã tu vô lượng vô biên khiếp. Chỉ vì một nhân duyên lớn sanh xuống chốn nhân gian. Cứu nhân độ thế làm cho nhân loại yên bình, cũng như siêu sanh về thượng giới.

Có duyên gặp đặng kinh nầy

Tiêu tan tai kiếp sống đời bình an

Huống chi đọc tụng truyền kinh

Cầu chi đặng nấy ứng linh vô cùng

Hay là biên chép ấn in

Cõi trời sống mãi trường sanh đời đời

Huống chi hiểu nghĩa kinh thời

Lo gì chẳng đặng Thánh, Thần, Phật, Tiên.

 

HẾT QUYỂN 1.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét