QUỐC BẢO CHÂN KINH
NHÂN
LUÂN
KINH
THIÊN ẤN THIÊN BÚT
GÒ HỘI
ĐỨC PHỔ QUẢNG NGÃI
2014
Dr. Cao Đức Toàn
QUYỂN 1
LỜI NÓI ĐẦU
ĐỊA NGỤC và GIẢI
THOÁT
HỎI:
Có người hỏi rằng thế nào là gia đình địa ngục ?
ĐÁP:
Nếu nói cho hết thời rất nhiều, nhưng tốm lại thời mấy điều cơ bản
tạo ra địa ngục gia đình, dưới đây vợ chồng bất hòa, con cái lộn xộn, anh, chị,
em, chồng, vợ, cha, con, mất hết nề nếp, chống bán nhau, cạnh tranh nhau, ganh
ghét nhau, lừa gạt nhau, chỉ biết mình không cần biết đến ai, chỉ vì cái lợi
riêng tư nhỏ nhen, mà không còn kể gì đến anh, em, chồng, vợ, cha, con, xem nhẹ
danh giá gia đình, xem thường luân thường đạo lý.
HỎI:
Thế nào là xã hội địa ngục ?
ĐÁP:
Xã hội địa ngục là xã hội chủ nghĩa cá nhân, độc tài, độc trị,
không có tự do, không có công bằng bình đẳng, không có dân chủ, nhân quyền,
sống trong sự lo sợ, kìm kẹp, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc không có.
Tóm lại: Gia đình bất hòa, xã hội loạn ly, sống không cần đạo lý lẽ
phải, chỉ biết quyền lực, mưu hại lẫn nhau, lối sống như thế chính là lối sống
địa ngục gia đình, địa ngục xã hội, từ địa ngục trần gian, dẫn đến địa ngục âm
phủ, gieo nhân chẳng lành, để rồi gặt hái quả dữ, quả dữ từ trong tâm thức của
mỗi người, quả dữ gây ra từ gia đình, quả dữ gây ra từ xã hội, cửa địa ngục âm
phủ đã rộng mở, đón nhận những tâm hồn đầy dẫy những tội lỗi như thế thảm thay.
* Thuận vợ thuận chồng, con cái hòa hợp, gia đình trên dưới
thương yêu lẫn nhau. Họ Tộc đoàn kết. Nội, ngoại, bình đẳng tôn trọng lẫn nhau,
yên vui sum hiệp, chia bùi xẻ ngọt cho nhau, đó chính là cuộc sống thiên đàng
gia đình, cuộc sống giải thoát khốn khổ, cuộc sống an vui an lạc.
* Sống có tự do, tôn trọng nhân quyền, sống theo Hiến Pháp,
Luật Pháp, Đạo Pháp, sống văn minh công bằng bình đẳng, tự do ngôn luận, tự do
mưu cầu hạnh phúc, nói chung là những quyền cơ bản con người, mà Tạo Hóa TỔ
TIÊN đã ban tặng, những quyền không ai có quyền xâm phạm, sống chân thật, sống
vì người, sống khoang dung và độ lượng, sống đoàn kết, sống không dối lừa hảm
hại nhau, sống vì xã hội, sống vì non sông tổ quốc, sống có tình có nghĩa, sống
vì người vì tình thương yêu rộng lớn, lối sống như nói trên chính là lối sống
xã hội thiên đàng trần gian.
Hướng về cội nguồn, sống có văn hóa, làm cho gia đình, xã hội, non
sông tổ quốc, nhân loại con người, đều được an vui hạnh phúc, cùng nhau gieo
nhân lành, cùng nhau giúp đở những người không được may mắn, xóa bỏ hận thù,
tha thứ cho nhau, sống như thế chính là mở rộng cánh cửa thiên đàng, cùng nhau
đi vào thế giới an lạc, cùng nhau siêu thoát về trời, lối sống như thế là lối
giác ngộ văn minh cao, lối sống tiến lên Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.
Để hiểu rõ thêm về lối sống con người, thời Kinh Nhân Luân chính
là kim chỉ nam cho cuộc sống tốt đẹp của mỗi chúng ta. Lối sống gia đình là lối
sống thiên mệnh, Mà Tổ Tiên Khai Hóa đã an bày như:
Đạo làm ông bà, đạo làm cha, đạo làm mẹ, đạo làm vợ, đạo làm
chồng, đạo làm con, đạo làm anh, đạo làm em, đạo làm chị. Làm ông bà phải ra
ông bà, làm cha mẹ phải ra cha mẹ, làm chồng phải ra đạo làm chồng, làm vợ phải
ra đạo làm vợ, làm con phải ra đạo làm con, làm anh phải ra đạo làm anh, làm
chị phải ra đạo làm chị, làm em phải ra đạo làm em, vân vân và .. Sống theo
thiên mệnh đạo luật gia đình luân chuyển tiến hóa, từ khi mới sanh ra đến lúc
về già và mất đi, thời ai cũng phải trải qua, làm con, làm anh, làm chị, làm
chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm ông, làm bà, khi luân chuyển đến ngôi vị
nào thời ta sống theo ngôi vị đó, làm tròn ngôi vị đó, sống theo thiên mệnh,
đạo luật gia đình, cũng có nghĩa là sống theo đạo Luật luân chuyển tự nhiên đã
an bày, sống có tôn ti trật tự, thứ lớp ngôi nào theo ngôi nấy, làm cho gia
đình có nề nếp, ổn định cuộc sống, trên thuận, dưới hòa cả nhà yên vui.
* Lối sống xã hội là lối sống xã hội nhân mệnh, Sống theo
hiến pháp, luật pháp, đạo pháp, xã hội công bằng bình đẳng, ai cũng như ai,
theo hiến pháp, luật pháp, đạo pháp, cho phép, có nghĩa, nam, nữ, già, trẻ, như
nhau, có tài có đức thời có phẩm vị cao, được xã hội tín nhiện, cho nên mới có
cảnh con hơn cha ở địa vị xã hội, vợ hơn chồng ở địa vị xã hội, phái nữ có thể
làm quốc vương, làm tổng thống, làm thủ tướng, miễn là không sai hiến pháp,
luật pháp, đạo pháp, cho phép, sự tiến hóa cạnh tranh công bằng bình đẳng,
không ai có quyền ngăn cản, có tài, có đức, có học vị cao, thời được xã hội
trọng dụng.
Làm người có hai lối sống như vậy, lối sống gia đình, lối sống xã
hội, thiên mệnh an bày, nhân mệnh ý thức, rõ ràng không nên nhầm lẫn, làm đảo
lộn cuộc sống đổ vở hạnh phúc, đão lộn xã hội. Người biết rõ thiên mệnh đạo
luật gia đình, nhân mệnh đạo luật xã hội, thời là phật, thánh, tiên, thần,
chúa, sanh xuống chốn nhân gian không sai, làm cho gia đình, xã hội, non sông
tổ quốc, đi vào ổn định trật tự, an vui hạnh phúc.
Để cho dễ nhớ những điều cơ bản theo lối sống văn minh, hiện đại,
bảo tồn hạnh phúc lâu dài, chung cùng tu học xử sự, gìn giữ hạnh phúc, kim chỉ
nam cho hạnh phúc đó là những lời kinh sau đây.
Trời có Âm có Dương
Người có Nam có Nữ
Trời có Đạo Âm Dương
Người có Đạo vợ chồng
* * *
Âm Dương tương hiệp
Vạn vật hóa sanh
Nam Nữ trao trinh
Sanh con cháu lưu truyền
* * *
Sống có Cội có Nguồn
Chính là sống an vui hiệp hòa
Cây có gốc nở cành xanh ngọn
Sống có Nguồn lành mạnh an vui
Từ xưa chí cổ chí kim
Sống mà mất gốc đão điên cơ đồ
Sống không Văn Hóa còn gì
Gia đình, Xã Hội, khó thời bình yên
Sau đây là những lời kinh
Lời châu tiếng ngọc giữ gìn sớm hôm.
*
* *
---------------------------
PHẦN 1
ĐẠO VỢ CHỒNG
Muốn cho gia đạo thịnh vương
Trước thông đạo lý sau tường nghĩa nhân
Công minh xử sự tỏ phân
An ngôi thứ lớp dưới trên rõ ràng
Vợ chồng đạo nghĩa chu toàn
Chung cùng tu học luận bàn lẽ hay
Vợ chồng trọng nghĩa xưa nay
Thủy chung giữ trọn sắc kia vô thường
Lúc nghèo cho đến lúc giàu
Nghĩa nhân không đổi lòng vàng chẳng thay
Thủy chung đạo nghĩa sâu xa
Một khi lạc đạo phải sa ngục hình
Ở đời nhân thế miệt khinh
Chết đi luân chuyển súc sanh đổi dời
Đạo chồng chung thủy trước rồi
Tấm lòng rộng lượng tánh thời khoang dung
Trăm năm ở cõi thế nhân
Là trường thử thách học hành luyện tu
Lọc lừa chọn những tinh hoa
Tài năng đạo đức chuyển qua thành hiền
Chứ không phải chốn ở yên
Trần gian cõi tạm phải siêng tỉnh lòng
Vợ chồng chung một con đường
Dắt dìu trên bước đường đời cùng nhau
Vượt qua biển khổ sông sâu
Phải nên yêu mến lẫn nhau trọn đời
Làm chồng giữ đạo làm chồng
Ăn ở một lòng trọn thủy trọn chung
Hiếu nghĩa đối với hai thân
Cũng đều cho trọn mười phân vẹn mười
Hiếu đạo thuận hiếu dung hòa
Bên chồng, bên vợ, đều là như nhau
Anh em cha mẹ hai bên
Thương yêu đùm bọc sớm hôm dắt dìu
Đạo đức tu luyện chuyên cần
Gia đình hạnh phúc xa gần tiếng thơm
Làm cho gia đạo ấm êm
Trên hòa dưới thuận đẹp trong lẫn ngoài
Nề nếp, từ trước xưa nay
văn minh cuộc sống hiển bày niềm vui
Làm vợ bốn đức nhớ luôn
Công - Dung - Ngôn - Hạnh, đạo thường xưa nay
CÔNG là công chuyện hằng ngày
Phải lo tính toán xếp bày cho yên
DUNG là chứa đựng điều hiền
Khiêm hòa trên dưới thuận lòng không tranh
Bà con hàng xốm lanh quanh
Dung hòa đối xử bất phân giàu nghèo
Chung cùng cuộc sống thương yêu
Bà con thân tộc ít nhiều gần xa
Cũng nên ăn ở thuận hòa
Là điều tốt đẹp nở hoa yên lành
Những điều phạm lỗi trong nhà
Khoang dung độ lượng thứ tha chẳng dìm
Khuyên răng dạy bảo lần lần
Con đường đạo đức thánh hiền đã đi
NGÔN là lời nói những gì
Nói lời đạo đức hiệp lời kinh luân
Nói cho có nghĩa có nhân
Không nên nói ác dệt thêu hại người
Lời nói đạo đức đẹp đời
Làm cho cuộc sống nở chồi mùa xuân
Lời nói tạo tác nghiệp duyên
Luân phiên quả báo nhãn tiền theo tay
Nói lời đạo đức phước xây
Nói lời ác đức họa bay chẳng lành
Nói lời thêu dệt tội nhiều
Nói lời đâm thọc diêm đình nào tha
Nói láo trời đất biết mà
Vậy nên ngôn ngữ chang hòa hiền lương
Phất mùi đạo đức rộng lan
Gia đình êm đẹp xốm làng yên vui
HẠNH là đức hạnh thiện lương
Phân minh, lễ phép, nhịn nhường, dạ thưa
Đành rành kẻ dưới bề trên
Nằm ngồi đi đứng không quên thuận hòa
Khi nhỏ sống với gia đình
Thuận theo gia đạo giữ gìn gia phong
Giúp cha phụ mẹ sớm hôm
Trông nôm công việc cho nên cửa nhà
Lớn lên nhớ chử tùng quyền
Theo chồng trọn đạo giữ gìn trắng trong
Chồng chết ở vậy nuôi con
Tiết trung giữ vẹn thánh ban chỉ truyền
Phong cho liệt nữ trung kiên
Làm gương lưu thế sang soi muôn đời
Nhơn luân đạo hạnh sáng ngời
Vợ chồng tu luyện ắt thời rạng danh
Trước là gia đạo bình an
Sau là đất nước xốm làng yên vui
Kinh nầy đọc tụng thường đêm
Làm cho trí huệ phước duyên tăng lần
Một năm tội ác tiêu tan
Hai năm phước đến Thánh, Tiên, hộ trì
Ba năm tu luyện thường khi
Cháu con hiển đạt vinh quy rạng ngời
Ông bà cha mẹ về trời
An vui tự tại muôn đời giàu sang
Cháu con hạnh phúc bình an
Nhờ tu thiện đạo tai qua phước đầy.
*
* *
Chúng con Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cúi lạy Tổ Tiên, Cha
Trời, Địa Mẫu. Ba ngôi tối cao vũ trụ phù hộ che chở, chứng tri công đức.
Cúi lạy CHA TRỜI , MẸ TRỜI
Nguyện tâm phổ độ
Kinh giáo lưu truyền
Hầu cứu khổ nhân loại anh em
Đồng sanh thiên giới
Với chút công lao hồi hướng về cội nguồn
Nguyện cầu nhân loại anh em
Đồng lên ngôi chánh đẳng chánh giác.
NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY).
NAM MÔ LONG HOA CỮU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI
(LẠY).
NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY).
KINH CHÚ
Nam mô khai hóa tổ tiên
Hiện thân hai đấng cửu huyền tối cao
Sanh ra nhân loại con người
Ông bà, cha mẹ, đến thời chúng con
TỔ TIÊN NAM MÔ A MEN
*
*
*
KINH CẦU NGUYỆN
Dân hương lễ lạy cửu huyền
Hiển linh gia hộ khắp miền cháu con
Huệ khai phước lộc đầy tràn
Gia đình hòa thuận, cháu con sum vầy
*
*
*
CHÚ NGUYỆN
Nguyện cho tất cả thế nhân
Sớm lên tiên giới sớm gần mẹ cha
Sớm gần cội gốc long hoa
Về nơi giải thoát vào nhà rồng tiên
*
*
*
---------------------------------
Bình luận:
Nam cũng như nữ, nếu không may chồng hay vợ chết sớm không bắt
buộc ở vậy nuôi con, tùy hoàng cảnh mà mưu cầu hạnh phúc, tái giá, hay cưới vợ,
không vi phạm gì đạo luật hôn nhân. Nhưng nếu làm được như kinh dạy quả là quí
hiếm, đáng được tôn vinh, một sự hi sinh quên mình vì lý tưởng cao đẹp.
Văn hóa cội nguồn, đạo đức là lẽ sống, đêm lại cho nhân loại con
người, một mùa xuân đầy hoa thơm quả ngọt, việt nam nói riêng, thế giới nói
chung.
Những thế kĩ sắp đến Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ra đời đánh dấu
thêm một bước tiến của xã hội, làm cho nhân loại con người nhận thức về chân
hạnh phúc, tiến đến xã hộ chân thiện hoàn mĩ. Thế giới đại đồng, long hoa đại
hội, lịch sử con rồng cháu tiên ra đời, bước vào ngôi nhà chung vũ trụ.
Khai hóa Tổ Tiên, hay còn gọi là CHÚA TRỜI, hay còn gọi là NHƯ
LAI, tuy có nhiều danh từ để gọi nhưng rốt lại chỉ là khai hóa Tổ Tiên mà
thôi, hay còn gọi là đấng tạo hóa.
Khai hóa tối thượng Tổ Tiên, khai tạo lập lên vũ trụ, tam
thiên, đại thiên, thế giới, 28 tần trời, 18 tần địa phủ, núi tu di, thất sơn
châu báu, nhật, nguyệt, tinh tú, thiên hà, ngân hà, bốn cõi trần gian, núi
thiết vi, địa luân, phong luân, thủy luân, ba cõi vũ trụ, thiên đàng, trần
gian, địa phủ, ba giới tâm linh, dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Chuyển vận vũ trụ, tạo ra ngày giờ, năm, tháng, lập lên thế
giới vạn vật, côn trùng thảo, mộc, muôn loài cầm thú, bò sát (
xem Long Hoa Thiên Tạng sẽ nói rõ hơn ).
Khai hóa Tổ Tiên, khai tạo lập lên tất cả xong, rồi hiện thân ra
CHA TRỜI, ĐỊA MẪU, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người, tiên rồng,
cho đến ngày nay.
Để xứng đáng là con cháu Tiên Rồng, chúng ta phải trở về với Cội
với Nguồn, sống theo thiên luật, thiên ý cha Trời, sống hòa thuận, sống theo lẽ
phải, không thể sống độc tài, độc trị, đi ngược lại thiên luật, thiên ý cha
trời, thủy chung là đặc tính, của chân tâm thể tánh linh giác vô vi, dù trôi
lăng trong vật chất muôn vạn ức kiếp, nhưng thể tánh linh giác vô vi vẩn trong
sạch không thay đổi, thủy chung trước sao sau vậy, người có tánh thủy
chung đó là tánh cao quí của tánh đạo.
*
*
*
Nói đến đạo vợ chồng, ngoài thủy chung, còn phải hiểu nam thuộc
dương, nữ thuộc âm, cái lý ÂM - DƯƠNG, cần phải nắm vững, có nghĩa là hiểu
nhau, tôn trọng nhau, hòa hợp nhau để tiến hóa. Đạo âm dương của trời, không
khác gì đạo âm dương của chồng vợ, ÂM - DƯƠNG, tượng hợp thời vạn vật hóa sanh,
có nghĩa là âm dương giao hòa thời vạn vật mới hóa sanh mạnh được, nếu âm quá,
hay dương quá, thời khó mà dung hòa.
Nếu gặp phải ông chồng nóng tánh quá, thời người vợ phải càng nhu
mì mềm dẽo, nếu người vợ nóng tánh như ông chồng thời khó bảo toàn hạnh phúc.
Cái đạo của âm dương nó tự biết kìm chế lẩn nhau, để đi đến sự hòa
hợp, tạo lên mùa xuân hạnh phúc gia đình, ÂM biết vị trí của âm, DƯƠNG biết vị
trí của dương, để mà sống cho phải đạo luật tự nhiên, theo đạo luật vũ trụ.
Theo đạo luật vũ trụ, dương lớn, thời âm cũng phải lớn mới dung
hòa sống chung với nhau được, có nghĩa là dương càng cương, thời âm phải càng
nhu, vợ có tánh đạo của vợ, chồng có tánh đạo của chồng, dương cương - âm nhu,
dương sáng - âm tối, dương bộc phát - âm cô rút, dương trước âm sau, dương hùng
bá, âm trấn thủ, sáng của dương tính chính là tinh thần, sáng của âm tính chính
là vật chất.
Giàu sự nghiệp do chồng đêm lại, giàu tồn tại do vợ biết giữ gìn,
đạo ÂM - DƯƠNG không nói đến vợ lớn hay chồng lớn, mà là biết dung hòa để tồn
tại, theo lý từ tối ra sáng thời thuận, từ sáng vào tối thời nghịch, từ nặng
biến thành nhẹ thời thuận, từ nhẹ biến thành nặng thời nghịch.
Vì thế tối phải theo sáng, nặng phải theo nhẹ, ÂM phải nương theo
dương, nên xưa nay vợ phải theo chồng, dù cho đó là mẫu hệ, phụ hệ, trai về nhà
gái, hay gái về nhà chồng, vợ phải nương theo chồng để tồn sanh, đâm chồi nẩy
lộc, bảo tồn sự sống, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người mãi mãi.
*
*
*
Nói đến nhân quả, không phải chỉ nói riêng cho mỗi con
người, mà nhân quả tập thể của nhiều người, thậm chí cho đến cả một đất
nước.
Cá nhân hành thiện, gia đình hành thiện, cả nước hành thiện, thời
non sông đất nước ấy nhất định kết hoa mùa xuân, kết quả giàu mạnh.
Cá nhân gieo nhân thiện, thời phước báo còn không thể nghĩ bàn,
huống chi cả gia đình hành thiện, cả nước hành thiện, thời phước báo càng không
thể nghĩ bàn, xã hội đất nước ấy là xã hội thiên đàng cực lạc quốc trần gian
rồi.
Luật nhân quả là luật hiện thực, hể có nhân là có quả, hể gieo
nhân thời gặt quả, gieo lúa gặt lúa, trồng cà hái cà. Gieo lúa thời không bao
giờ trổ ra ngô, gieo ác thời không bao giờ gặt thiện.
Người gieo ác mà gặt thiện, đó là họ gặt nhân thiện ở kiếp trước,
hoặc nhân thiện ông bà cha mẹ để lại cho họ, họ gặt hết nhân thiện ở kiếp
trước, cũng như nhân thiện ông bà cha mẹ để lại cho họ, thời họ phải gặt đến
quả ác của họ đã gieo ra, không thể chạy đâu cho thoát, đã gieo ra thời phải
gặt lấy, không ai gặt thế cho mình được.
Chỉ còn một cách là gieo phước thiện trừ bớt hậu họa mà
thôi, hoặc nhờ quyền năng vô hạng, tổ tiên, cha trời, mẹ trời, chuyển họa
thành phúc cứu khổ cứu nạn.
Một đất nước dân chúng cứ mãi sa đọa, vào con đường tội lỗi, cũng
như vua quan, cứ độc tài độc trị mãi, thời đất nước đó khó mà tiến tới cảnh dân
giàu nước mạnh được, gieo nhân như thế thời làm sao gặt quả phồn vinh thịnh
vượng cho được.
Phải đổi mới tư duy, đổi mới hướng đi, loại bỏ văn hóa độc hại,
thời mới chuyển đổi được số mạng của một dân tộc, cũng như bản thân, gia đình.
*
*
*
---------------------------------
PHẦN 2
NHƠN LUÂN ÂM KINH
Sau đây là phần kinh âm dương, để mà tùy thuận vào cuộc sống, đêm
lại hạnh phúc cho gia đình.
ÂM KINH
Trong giới nam hay là giới nữ
Hiểu cho tường sự khởi âm dương
Chơn âm là thể nữ nhơn
Chơn âm nhu yếu vợ nên phải mềm
Nếu ngược lại nữ nhơn khô cứng
Thời coi như xung khắc chơn dương
Làm cho xung đột chẳng yên
Gia đình đổ vở khó nên thuận hòa
Đạo chơn âm yếu mềm thuận hiếu
Đó là điềm lợi thế giữ mình
Nước kia ở thấp thường tình
Nhưng nào lửa dữ hơn gì được đâu
Nước tuy mềm nhưng nào phải thế
Đá phải mòn từng thấy xưa nay
Đá mòn nước chảy mây bay
Thấp cao tùy lúc chuyển xây thế tình
Nếu ngược lại hung sùng nóng tánh
Thời coi như xung khắc chồng con
Sống thời trái lẽ tự nhiên
Con đường gia đạo khó nên thuận hòa
Cũng vì vậy vợ hiền phái yếu
Phải hiểu mình thời mới thơm danh
Chơn âm cô rút vững thân
Hiền hòa nhỏ nhẹ chuyển xây sự đời
Nếu ngược lại vợ càng nóng tánh
Thời coi như trái lý chơn âm
Vợ chồng khó đặng ấm êm
Nát tan đổ vở khó nên cửa nhà
Phải hiểu rõ tánh âm cô rút
Nên nữ nhân thủ tiết thờ chồng
Ứng theo tứ đức tam tùng
Đó là lẽ sống của người thành tiên
Nếu ngược lại nữ nhơn bạo phát
Tánh hung sùng ác sát chẳng kiên
Làm nên những chuyện đảo điên
Lấn chồng áp đảo rối ben trong ngoài
Nếu âm dương thường hay đảo lộn
Thời gia đình họ tộc sao an
Đó là thời loạn gia môn
Làm sao tránh khỏi tiếng đồn bay xa
Nên hiểu rõ âm dương triết lý
Nên nữ nhân đức tánh thâm trầm
Nhu mì hiền thục dịu dàng
Làm cho cuộc sống gia đình yên vui
Nếu ngược lại vợ luôn quá quắt
Làm cho chồng bực tức nổi hung
Đó là xung khắc chơn dương
Làm sao tránh khỏi lị phiền bản thân
Cũng nên biết chơn âm cô đọng
Thời nữ nhơn phải trọng thân mình
Chăm lo gìn giữ hạnh lành
Giữ gìn giá ngọc thường hằng sáng trong
Nếu ngược nữ nhơn buông thả
Không giữ mình dục dã đâu đâu
Làm sao tránh khỏi thảm thê
Sống thời phải chịu họa hề nhuốt nhơ
Cũng phải hiểu Dương trên Âm dưới
Vợ giúp chồng phò tá sớm hôm
Thay chồng quán xuyến trông coi
Gia tài sự nghiệp vững yên trường tồn
Nếu ngược lại vợ đè chồng dưới
Vợ lấn chồng buộc trói chơn đương
Làm cho gia đạo rối ren
Gia đình lụn bại khó nên danh hiền
Cũng nên biết âm hòa dương thịnh
Thời lo gì chẳng được ấm no
Chơn âm hướng nội bên trong
Chơn dương hướng ngoại dựng xây cơ đồ
Nên chơn âm vung bồi nội thể
Thường lo toan hết thảy trong nhà
Nên hư của một gia đình
Không ngoài người vợ giữ gìn ấm êm
Nếu ngược lại vợ trên chồng dưới
Vợ chuyên quyền chồng đứng đàng sau
Âm càn không kể thiệt hơn
Gia đình họ tộc đảo điên phen nầy
Đó là lúc gia đình địa ngục
Nếp gia phong lụn bại còn chi
Hết còn trên dưới tôn ti
Còn đâu hạnh phúc còn chi thuận hòa
Âm lấn Dương độc tài quyền bá
Mãi chuyên quyền gò bó chồng con
làm cho Dương lụn bại suy
Gia Đình tăm tối mấy khi thịnh hành
Lại hiểu rõ dương trong âm đục
Vợ theo chồng chuyển vận sáng soi
Mặt trăng phản chiếu dương quang
Làm cho gia đạo huy hoàng đẹp xinh
Nếu ngược lại chơn Âm không rõ
Tự tác tung chẳng bỏ hung hăng
Chuyên quyền lấn áp chơn Dương
Đó là nghịch lý thiên công an bày
Nếu ngược lại chẳng màng đạo lý
Cứ làm bừa họa đến tai bay
Luật trời sau trước xưa nay
Nào ai cải được thế thay đạo trời
Làm con người thức thời Thiên Ý
Hiểu cho tường nguyên lý âm dương
Chơn âm chìm xuống náo nương
Chơn dương nhẹ nổi thênh thang bao trùm
Âm theo dương lẫy lừng hùng bá
Dựng nghiệp trời nào khó xưa nay
Chồng sao Vợ vậy mới hay
Thuận chồng thuận vợ đồng bay đồng thành
Trong trời đất dương truyền âm giữ
Âm nhờ dương rực rỡ bay cao
Mây kia không phải nước sao
Nhờ Dương mây mãi bay vào không gian
Âm mất dương tối tăm mờ mịt
Càng lạnh tanh lụn bại khó nên
Cho nên âm phải theo dương
Nẩy chồi nở lộc mùa xuân đất trời
Cần phải hiểu rõ thời chân lý
Âm tối đen Dương sáng tỏa ra
Cho nên gái phải theo trai
Là điều thuận lý xưa nay sống còn
Cũng vì thế chơn âm định tỉnh
Ứng dụng ra thể tính khéo khôn
Làm cho dương phải chuyển luân
Giữ gìn âm mãi tung bay khắp cùng
Nên suy xét tận tường nguyên lý
Đạo luật trời hai lối, kiết, hung,
Hai bên cảnh giới phân minh
Thiên đàng địa phủ, mấy khi sai nào
Cõi thiên đàng sáng bừng châu báu
Cõi âm ti đầy lối yêu ma
Xưa nay trong cõi người ta
Dương là sự sống có sai bao giờ
Trong hoàn vũ đất trời phân định
Thành hai bên ác thiện hai nơi
Dương quang thành lập cõi trời
Trân châu, vàng ngọc sáng ngời lung linh
Bên âm phủ tối tăm muôn thuở
Sắt cùng chì thiết kẻm dẫy đầy
Địa phủ khốn khổ lắm thay
Hành hình đói khát suốt ngày khảo tra
Âm với Dương hai bên đã rõ
Đạo luật Trời ai cải được đâu
Thuận Thiên thời đặng phước cao
Lo gì chẳng đặng siêu sanh Thiên Đàng
Vợ cùng Chồng ôn hòa chánh thiện
Thời gia đình hưng thịnh biết bao
Gia đình êm ấm, ấm êm
Cháu con hưng thịnh bình yên đời đời
Âm kinh đây ai mà gặp đặng
Thời phát tâm tụng niệm chép in
Lưu truyền cho cả thế gian
Chung cùng tu học luận bàn lẽ hay
Công đức ấy đắp xây hạnh phúc
Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, hộ trì
Ông bà cha mẹ nhiều đời
Về nơi cực lạc thiên đàng an vui
Nếu như vua, chúa, quan, dân
Truyền kinh dạy bảo gốp phần công lao
Người nầy sẽ được Tổ Tiên
Khai thông trí huệ vô biên phước lành
Cháu con vinh hiển đời đời
Công thành danh tọa sang giàu bền lâu
Lời kinh vi diệu cao sâu
Thành tâm chuyển số nguyện cầu hiển linh.
*
* *
Chúng con là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Thành tâm kính lạy Tổ
Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu, ban phúc lành cho toàn nhân loại anh em, cầu
nguyện cho toàn nhân loại anh em, sớm hội ngộ cội nguồn, thấu hiểu Đạo Lý Âm
Dương, làm chủ chân tâm, chân tánh, lên ngôi tối cao chánh đẳng, chánh giác,
giải thoát sanh tử, làm chủ vũ trụ, làm chủ thiên đàng cực lạc.
NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY).
NAM MÔ LONG HOA CỮU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI
(LẠY).
NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY).
*
*
*
Bình Luận:
Nói đến sự lý âm - dương là như thế, nên biết trước, mà tránh đi
điều không tốt xảy ra, bảo vệ hạnh phúc gia đình, cái đạo Âm Dương là cái đạo
tự nhiên, phải biết dung hòa lẫn nhau, để phát triển tồn tại sự sống, nếu chồng
quá dương thời vợ phải biết làm gì, đạo Âm - Dương cần phài
dung hòa để mà tồn tại, nếu Dương quá thời âm diệt không phát triển được,
nếu Âm quá thời dương diệt không phát triển được, nên ông cha ta thường dạy,
thuận vợ thuận chồng, biển đông tác cạn.
Ở thời Phong Kiến Thần Giáo sự sai lầm là coi trọng Dương đạo quá
lớn, trở thành khắc khe của đạo làm chồng, làm cho Âm đạo không phát triển
được, người vợ trở thành nô lệ cho chồng con, không phát huy được tài năng của
người phụ nữ, kìm hảm trong khuôn phép Phong Kiến Thần Giáo lạc hậu sai lầm.
Sự giàu sang của gia đình, cũng như xây dựng xã hội, non sông, tổ
quốc, thời người phụ nữ đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Ở thời cực đại của mạc pháp, con người rơi vào ác đạo đề cao
âm đạo, (đề cao âm đạo khác với coi trọng âm đạo) dẫn tới một số đông tan vỡ
hạnh phúc, mâu thuẩn xung đột luôn xảy ra, nếu không tan vỡ gia đình, thời hạnh
phúc vợ chồng chỉ là con số không, nếu Chơn Dương đã bị Chơn Âm che lấp
thời ông chồng khó mà làm nên nghiệp lớn.
Vì thế văn hóa cội nguồn ra đời chỉ rỏ nguồn cội của Âm Đạo, Dương
Đạo, phải biết dung hòa đên lại sự cân bằng, hòa thuận âm dương, thương yêu
nhau, bảo bọc nhau, cùng nhau tiến hóa đâm chồi nẩy lộc sanh sôi nẩy nở, tạo
lên sự giàu có, tạo lên mùa xuân của hạnh phúc, một gia đình văn minh, là gia
đình luôn sống hòa thuận, tôn trọng lẩn nhau, vợ tôn trọng chồng, chồng tôn
trọng vợ, không phân biệt giai cấp, hòa thuận yêu thương nhau để mà sống, âm
nhờ dương hướng ngoại để sanh tài sanh lộc, Dương nhờ Âm trụ vững làm nên
nghiệp lớn.
Nói tóm lại Dương nhờ âm quán xuyến nội gia củng cố nội lực để mà
thành danh thành nghiệp, Âm nhờ Dương để mà sanh tài sanh lộc làm nên sự ấm
cúng giàu sang của gia đình. Người chồng có làm nên nghiệp bá, mười phần hết
chín, là nhờ có người vợ đảm đang, người vợ mà trở nên hửu ích cho xã hội là có
người chồng biết dung hòa cuộc sống của Đạo vợ chồng biết làm cho vợ được tỏa
sáng.
Nam giới mà làm nên lịch sử, thời nhờ có phụ nữ biết lo liệu đảm
đang, mọi bề gia đình, xã hội. Người chồng cố gắng làm nên sự nghiệp, là vì gia
đình, vì vợ vì con, cao hơn nữa là vì dân vì nước. Người vợ cố gắng bảo vệ sự
giàu sang, là vì gia đình, vì chồng vì con, cao hơn nữa là vì dân vì nước.
Như vậy chí hướng của vợ, của chồng, chung cùng mục đích, không
ngoài đêm lại hạnh phúc cho gia đình, con cái, cao hơn nữa là tương lai về sau.
Sự tranh hơn, tranh thua, dẫn đến tự ái bất hòa, đó là một việc
làm ngu xuẩn, trước mắt là một hố thẳm tan vỡ, hạnh phúc.
Nổi lo sợ của người phụ nữ, là sợ chồng bỏ rơi mình, vì tính khí
của bậc anh hùng, thường bị chinh phục bỡi sắc đẹp và sự khôn khéo mềm yếu của
người phụ nữ.
Vì thế thường sanh ra cay cú, chính vì sự cay cú ấy đã đánh mất
cái đạo tối cao âm tính của người phụ nữ, đó là sắc đẹp, và sự khôn khéo nhu mì
yếu mềm của người phụ nữ, đã từng cột chân ông chồng của mình từ khi mới gặp
nhau.
Thật ra mà nói lửa không hơn được nước, cứng khó hơn được mềm, nhu
thắng cương, nhược thắng cường. Xưa nay vẩn còn giá trị, lịch sử cũng đã cho ta
thấy, không biết bao nhiêu phụ nữ, làm điên đảo những bậc Anh hùng, không phải
cái tài hùng bá làm nên nghiệp lớn của người phụ nữ, mà chính là đạt đến trình
độ của ÂM ĐẠO, làm cho dương đạo mê hoặc, và bị khuất phục, bỡi những đức tánh
diệu kỳ, của sự khôn khéo biết núp bóng sau dương, cột trói dương bằng nhu mì
mềm yếu khôn ngoan của người phụ nữ.
Nói đến sắc đẹp không thời chưa đủ, làm mê hoặc bậc đại anh
hùng, mà chính là đạt đến trình độ của âm đạo, lẫn sự khôn khéo của người
phụ nữ, mới giữ được cột trói người đàng ông đại tài kia.
Như vậy âm kinh là kinh pháp không thể đọc qua mà hiểu, mà cần
phải có sự nghiêng cứu, mới đạt đến kết quả cao, âm kinh chính là báu vật
của người phụ nữ, dùng nó để giữ gìn hạnh phúc.
*
*
*
Sự thay đổi xã hội, chính là sự thay đổi của nền văn hóa, dân tộc
nào không có văn hóa, hoặc có văn hóa, nhưng đó là văn hóa đồi trị độc hại.
Thời không nói cũng biết, thời dân tộc đó không còn tự chủ được
nữa, luôn luôn bị kẻ thù chi phối sai khiến, làm cho nước mất nhà tan, tương
tàn nồi da nấu thịt.
Vì thế muốn cứu đất nước thoát khỏi sự chi phối sai khiến
của kẻ thù, giữ gìn độc lập, dân tộc đoàn kết, dựng xây cơ đồ bá nghiệp hùng
mạnh.
Nền tản của sự cứu nguy đó, không có gì hơn được văn hóa, nhất là
văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa dựng nước, và giữ nước.
Người người có văn hóa, nhà nhà có văn hóa, chính là nền tản kiên
cố của nền độc lập, nền tản kiên cố của sự phát triển, nền tản kiên cố của sự
giàu sang và hùng mạnh.
Người người có hạnh phúc, nhà nhà có hạnh phúc, thời không nói
cũng biết là non sông tổ quốc đó, rực thắm mùa xuân.
Nam có tánh khiêu hùng của nam
Nữ có tánh hiền thục của nữ
Âm - Dương, hiệp nhau để tiến hóa, nam mạnh như rồng, nữ đẹp như
tiên thời còn gì hay cho bằng.
*
* *
MUỐN BIẾT NHÂN LOẠI CON NGƯỜI NĂM MÀU DA ANH EM RA ĐỜI Ở ĐÂU ?
CÁCH ĐÂY BAO LÂU. UY DANH CHA TRỜI LẠC LONG QUÂN, UY DANH MẸ TRỜI ÂU CƠ. THỜI
PHẢI TRUY TÌM LONG HOA THIÊN TẠNG. VĂN HÓA CỘI NGUỒN TỐT CAO CỦA NHÂN LOẠI CON
NGƯỜI.
*
*
*
---------------------------------
PHẦN 3
NHƠN LUÂN DƯƠNG KINH
Trong phái nam hay là phái nữ
Hiểu cho tường thấu rõ âm dương
Nam nhơn là thể an ban
Chương dương lý cứng nam nhơn phải hùng
Nếu ngược lại yếu mềm nhu nhược
Thời coi như khó đạt nên danh
Sống thời trái nghịch tự nhiên
Chết đi không khỏi luân phiên đổi dời
Tánh nam nhơn phải thời cứng rén
Vì chơn dương hùng bá chuyển luân
Làm trai chí ở bốn phương
Quên mình vì nước giúp dân sang giàu
Nếu ngược lại chồng sau vợ trước
Thời rõ ràng nghịch lý âm dương
Sống thời khó đặng nên danh
Tiêu tan nề nếp gia phong chẳng còn
Nên hiểu rõ cho tường tính lý
Vì chơn dương có chí an ban
Cho nên mạnh dạng đảm đương
Giúp dân giúp nước hiên ngang ở đời
Nếu ngược lại yếu hèn co rút
Chí nhược nhu luồn cúi tựa nương
Đó là trái lẽ chơn dương
Sống thời khó đặng danh thơm đất trời
Nên phải hiểu nam hùng chí lớn
Thân làm trai xốc vác nhẹn nhanh
Tung hoành ngang dọc dưới trên
Trong ngoài thống nhất vững bền quản gia
Nếu ngược lại nam nhơn chìm lỉm
Tánh rề rà chẳng hiển tài năng
Làm cho nghịch lý dương quang
Sống thời phải chịu mọi đàng đắng cay
Cũng nên hiểu âm sau dương trước
Thời nam nhơn gánh vác sáng soi
Đảm đương mọi việc trước sau
Đối đầu hết thảy khó khăn trong ngoài
Nếu ngược lại vợ bay chồng trói
Thân đàng ông núp bóng vợ con
Còn đâu ánh sáng dương quang
Tối tăm mờ mịt nát tan cơ đồ
Nếu âm dương thường hay đảo lộn
Thời gia đình họ tộc sao an
Đó là điềm dở rối ben
Làm sao tránh khỏi đảo điên khốn nàn
Cũng nên hiểu đất trời phân định
Nên âm dương theo luật tự nhiên
Làm vợ ứng dụng bên trong
Làm chồng bộc phát vươn xa bên ngoài
Nên nam nhân phải thầy, phải thợ
Thường đối đầu tháo gở khó khăn
Đó là hợp lẽ chơn dương
Âm - Dương, tương hiệp tự nương xay thành
Lại hiểu rõ ngọn ngành đạo lý
Đạo làm chồng phải thấy hư nên
Dù là công việc nhỏ nhen
Hay là xã hội, nước non, trong ngài
Nếu ngược lại cúi luồn để sống
Để quân thù gặm nhấm quê hương
Phu quân núp bóng hiền thê
Còn chi dương lý lộn bề hóa công
Dương nào phải chơn âm co rút
Mãi cuộn mình khó thoát tai bay
Chơn dương chìm xuống ra chi
Phải nên nhẹ nổi thênh thang bao trùm
Lý chơn dương không hùng thì bá
Bay lên cao tỏa sáng khắp nơi
Làm cho sự sống ở đời
Thái bình an lạc biển trời đầy xuân
Nếu ngược lại chơn dương không sáng
Thân đàng ông hèn yếu co ro
Đó là lụn bại chơn dương
Sống thời phải chịu nhiều đường thiệt thân
Trong trời đất dương lên, âm xuống
Âm lạnh tanh, dương nóng rõ ràng
Cho nên đạo lý làm chồng
Dắt dìu âm lý bay vào trời mây
Cần phải hiểu rõ thông chân lý
Âm tối đen dương sáng đâu sai
Cho nên dương phải sáng soi
Chiếu cùng khắp cả trong ngoài càn khôn
Nếu ngược lại chơn dương mờ tối
Thời coi như vùi lấp cuộc đời
Lý dương sai trái lộn đường
Chịu nhiều khốn khổ họa vươn lấy sầu
Cũng vì thế phải nào rõ lý
Phải anh hùng chí lớn uy nghi
Vững chèo lèo lái hướng đi
Công thành danh tọa làm nên nghiệp trời
Âm dương lý dung hòa hùng khởi
Trải vàng son đầy rẫy báu châu
Âm dương chung hiệp một bầu
Lo gì chẳng được sang giàu, giàu sang
Dương, kinh đây có ai gặp đặng
Thời cũng nên truyền tụng để đời
Lưu truyền cho cả nhân loài
Chung cùng lợi ích cho người cùng tu
Được như vậy Tổ Tiên ấn chứng
Ban phước lành muôn kiếp về sau
Trăm nghìn ức kiếp làm vua
Cháu con vinh hiển giàu sang vạn đời
Chỉ cần truyền được một lời
Tai qua nạn khỏi cuộc đời an vui
Còn như biên chép ấn in
Chuyển họa thành phúc cầu chi cũng thành
Ông bà, cha mẹ nhiều đời
Siêu sanh cực lạc nhờ lời truyền kinh
*
* *
Chúng con là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, nguyện cầu lên
Tổ Tiên, Cha Trời Lạc Long Quân. Địa Mẫu, Âu Cơ ban phúc lành cho toàn nhân
loại cháu con, kẻ chết siêu thăng, người sống an vui, chung cùng hạnh phúc,
thoát đời nghèo khổ, an hưởng giàu sang, phiền não tiêu tan, hội ngộ chân tâm,
chân tánh, lên ngôi chánh đẳng chánh giác, không còn sanh tử tự tại an vui.
NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY).
NAM MÔ LONG HOA CỮU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI
(LẠY).
NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY).
*
*
*
---------------------------------
PHẦN 4
NHẨN, NHỊN, NHỤC KINH
Cội nguồn của ÂM - DƯƠNG, không có sự chia cắt phân biệt, mà là
cội hòa hợp, thống nhất, gốc của NHẨN, NHỊN, NHỤC.
Trai gái, lớn lên có chồng có vợ, thường trao nhẫn, đính hôn là có
dụng ý như sau:
Gói gắm trao con chiếc nhẫn nhà
Rằng đây quà tặng của mẹ cha
Báu vật nói lên trong dụng ý
Trưởng thành con, cháu, lên xe hoa
Đeo nhẫn thường tình vật điểm trang
Với ba chữ nhẫn quí hơn vàng
Tiếp xúc xã giao thường đeo nhẫn
Nhẫn là nhường nhịn nghĩa tào khang
Nhẫn nhịn mẹ cha chẳng phải hèn
Gặp phải sự đời quá khó khăn
Tam nhẫn trải trang luôn hòa hiếu
Vượt qua giông tố đến đất bằng
Tam nhẫn hành trang nhớ công phu
Đạo đời đeo nhẫn rạng đường tu
Công thành danh tọa nhờ đức nhẫn
Tích đức tu tâm xóa hận thù
Khôn để dạ nhớ câu thơ dặn
Đạo vợ chồng hòa thuận cùng nhau
Thủy chung một dạ trước sau
Việc nhà mình liệu chớ so việc người
Thơ giáo huấn sang giàu đức nhẫn
Việc sanh tồn kính cẩn vào ra
Mấy lời đưa tiển mẹ cha
Theo chồng con nhớ thuận hòa đừng quên
Chữ lợi danh khi nên cũng tốt
Bỉ hà thời hạt muối cắn hai
Với ba chữ nhẫn hơn tài
Vượt qua bể khổ bão bùng sông sâu
Ngày kết tóc xe duyên con cái
Trao cho con nhẫn báu đức nhu
Ở đời chọn lấy đường tu
Mai sau con cháu võng dù nghênh ngang
Rạng danh nghiệp âm vang luân lý
Xứng dâu hiền đẹp ý tông đường
Vợ chồng trọn nghĩa tào khương
Công thành danh tọa làm gương để đời
Cuộc dâu bể vô thường chuyển đổi
Vẹn nghĩa tình chung thủy an khang
Giàu, nghèo, trí, đức, trời ban
Chồng xướng, vợ họa, ấm êm trong ngoài
Còn nghĩ đến Ông Bà Cha Mẹ
Nhớ tìm về Nguồn Cội tựa nương
Cha trời địa mẫu chánh thân
Hiếu trung, trung hiếu, trọn phần cháu con
Tiên Rồng dòng giống Lạc Long
Hiền nhu, nhẫn nhịn hồn linh về trời.
----------------------------------
Bình luận:
Cội nguồn của đạo âm dương, là sự hòa thuận, hòa hiệp hướng về hòa
thuận hòa hiệp, là tìm thấy hạnh phúc của đạo vợ chồng, thương yêu nhau, tôn
trọng lẩn nhau, chung trên một con đường đời chồng sao vợ vậy, chồng cứng thời
vợ phải mềm, chồng càng hung bạo thời vợ càng hiền thục, chồng bạo động thời vợ
phải trầm tỉnh, lối sống của người phụ nữ như thế, không phải là lối sống thấp
hèn, mà là lối sống vô cùng cao sang, vô hiệu hóa, làm tiêu tan cái tánh nóng
nảy bạo ngược của ông chồng, vì lửa thường không hơn được nước, đá tuy cứng
cũng bị nước bào mòn, cứng thời dễ gãy, mềm nên khó dứt, chồng nóng nảy
hung bạo mà vợ cũng có cái tánh nóng nảy hung bạo ấy, không chịu thua nhau thời
sự đổ vỡ hạnh phúc chỉ là thời gian.
Thứ vũ khí lợi hại của mỹ nhân không chỉ có ở sắc đẹp và nước mắt,
mà còn là một thứ quyền năng, chính là sự mềm yếu, khôn khéo đạt đến đỉnh cao
của âm đạo, như tây thi, chẳng hạn.
Quyền năng tối cao của người phụ nữ, không phải là sự hơn thua,
đối đầu, mà chính là đỉnh cao sự khôn khéo của âm đạo, cột trói các bật hung
bạo, sai khiến các bậc anh hùng, như Tây Thi, Đắc Kĩ, vân vân . . . Bảo vệ hạnh
phúc, cũng như sự ngiệp gia đình, ngoài sự hòa thuận tôn trọng lẩn nhau, đồng
cùng chí hướng, mà còn phải biết phát huy tài năng, bẩm sinh của vợ lẩn cả
chồng, ngoài xã hội vợ chồng sống theo hiến pháp, luật pháp, đạo pháp công bằng
bình đẳng xã hội,trong gia đình vợ chồng sống theo thiên mệnh, sống theo cái
đạo làm chồng làm vợ, làm cha làm mẹ, Âm Dương tương hiệp, hòa thuận thương yêu
nhau cuộc sống con người, có hai lối sống như vậy, lối sống xã hội lối sống gia
đình, không có sự lẫn lộn ở đây.
Thủy chung dù một túp lều tranh
Xuân, hạ, thu, đông vẩn ngọt lành
Sung sướng nào hơn niềm hòa thuận
Yêu thương luôn trổ búp chồi xanh.
*
* *
----------------------------------------
PHẦN 5
ĂN Ở CHO CÓ ĐỨC KINH
Mấy lời ăn ở dạy con
Dầu mà gặp lúc nước non xoay vần
Ở cho có nghĩa có nhân
Mới mong có phước được ăn lộc trời
Thương người khốn khổ ngược xuôi
Thương người hoạn nạn ốm đau cơ hàn
Thương người khốn khổ lầm thang
Thương người sớm tối lạc đàng bơ vơ
Thương người nghèo khổ xác xơ
Tha phương cầu thực bến bờ thẳm thăm
Thương người bồng ẳm ăn xin
Thương người tuổi tác già nua khốn cùng
Thương người cô phụ cùng đường
Thương người yêu nước ngục tù khảo tra
Thương người hoạn nạn hàm oan
Vướng vòng lao lý nát tan cửa nhà
Biết bao thảm cảnh trên đời
Họa tai, tai họa con người mãi nang
Thấy ai khốn khổ thời thương
Nguyện cầu cho họ thoát đường khốn nguy
Đồng tiền bác gạo giúp nhau
Chia bùi xẻ ngọt đớn đau cuộc đời
Cầu cho non nước yên bình
Chúng dân thoát khổ đăng trình ấm no
Thương người vì nước vì dân
Vào tù ra tội muôn lần gian lao
Miếng khi đói gói khi no
Của tuy nhỏ bé nghĩa so nghìn trùng
Của là vạn sự của chung
Sống còn chết mất tay không được gì
Giúp người tích đức tiếc chi
Thơm danh vã lại bia ghi để đời
Cháu con nhờ đức rạng ngời
Bình an hai chữ sang giàu rạng danh
Sống cho có nghĩa có nhân
Lo gì chẳng được thêm phần tốt tươi
Sống lâu hưởng phước trời ban
Luật thiên nhân quả vững vàng niềm tin.
*
* *
----------------------------------
Bình luận:
Muốn có một xã hội tốt đẹp, non sông tổ quốc giàu mạnh, thời không
thể không gieo hạt giống phúc lành, những hạt giống cho nhiều kết quả tốt, loại
bỏ những hạt giống mầm họa, hạt giống thái hóa, tốn nhiều công sức mà gặt hái
thời chẳng được bao nhiêu, keo kiệt chỉ biết mình không nghĩ đến người.
Chủ nghĩa cá nhân không đêm lại kết quả tốt. Không những không tốt
cho đời mà còn làm hại đến bản thân.
Sự độc tài độc trị, không đem lại kết quả cao, vì nó đã quá
lỗi thời, không còn phù hợp với thời đại, không theo kịp sự tiến hóa, tiến bộ,
dân trí của nhân loại con người.
Phải đặc quyền lợi cá nhân theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp
công bằng bình đẳng, dân chủ văn minh, làm kim chỉ nam cho cuộc sống, và cũng
chỉ có HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG, mới thật sự đêm lại
sự độc lập tự do, đêm lại cuộc sống bình yên ấm no cho toàn dân tộc.
HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP CÔNG BẰNG BÌNH ĐẰNG. HIẾN PHÁP DỰNG
NƯỚC, GIỮ NƯỚC, CHÍNH LÀ PHÁP VƯƠNG CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, VÀ CŨNG CHỈ CÓ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN THẬT SỰ MỚI ĐÊM LẠI SỰ CÔNG BẰNG BÌNH ĐẲNG CHO MỖI CON NGƯỜI,
QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN TỰ DO, QUYỀN MƯU CẦU HẠNH PHÚC, MỚI THẬT SỰ ĐI VÀO CUỘC
SỐNG, CON NGƯỜI SANH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG NHƯ NHAU, TRONG NGÔI NHÀ CHUNG VŨ TRỤ.
*
* *
--------------------------------------
PHẦN 6
PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA, KHÔNG TỪ ĐÂU ĐẾN MÀ TỪ TÂM CON
NGƯỜI
Những người có công, truyền bá chân kinh dìu dắt nhân loại con
người, đi đến con đường giải thoát tội lỗi, tiến đến hạnh phúc, thời những đó
chính là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, ở tại thế gian ngay trong cuộc sống đời
thường ở tương lai họ là Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở thiên đàng.
Chúng ta nên biết những người có công dìu dắt nhân loại con người
đi đến con đường chính nghĩa độc lập, tự do, dân chủ, đêm lại quyền sống, quyền
tự chủ, quyền công bằng, quyền bình đẳng, quyền, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc, những quyền cơ bản mà TỔ TIÊN KHAI HÓA, đã ban tặng cho mỗi con
người, những người có công lao như thế, thời phải nói là một sự hi sinh to lớn,
việc làm vô cùng cao cả, công đức ấy không thể nào ca ngợi cho cùng được, và lẽ
đương nhiên họ sẽ được nhân loại táng tụng suy tôn.
Để được xứng đáng với công lao to lớn ấy, ngoài những địa vị xã
hội, họ còn suy tôn lên Phật,Thánh, Tiên, Thần, Chúa.
Nói chính nghĩa chân chính thời không có độc tài độc trị,
không có thể chế độc tài độc trị, mà chỉ có nền Hiến Pháp chân chính, nền Luật
Pháp chân chính, nền Đạo Pháp chân chính, công bằng bình đẳng, pháp trị, không
phải độc tài độc trị.
Con đường xây dựng lên nhà nước pháp trị, không phải bằng con
đường đấu tranh giai cấp, bằng bạo lực mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là
giặc.
Mà là bằng con đường đấu tranh Văn Hóa Chính Nghĩa không bằng bạo
lực, mà bằng con đường bất bạo động, thắng nhau trên lẽ phải, đó là THÁNH
CHIẾN, mà từ xưa đến nay chưa từng có, hoặc có trên những nước cực đại văn
minh.
Những người đấu tranh bằng Văn Hóa Chính Nghĩa, là những bậc giác
ngộ cao, trí thức lớn, thắng nhau trên lẽ phải, và được sự ủng hộ của đại đa
số, tiến tới xây dựng lên nhà nước pháp quyền, HIẾN PHÁP, LUẬT PHÁP, ĐẠO PHÁP
trên hết, nhà nước thật sự của dân do dân và vì dân.
Thánh chiến là cuộc chiến ít đổ máu nhất, nhưng đạt kết quả rất
cao, kết quả dân giàu nước mạnh độc lập lâu dài.
Đứng về phương diện Thánh chiến mà nói, đương nhiên người có công,
người vì chính nghĩa mà huy sinh, hoặc vì nhân loại mà cống hiến cả đời mình,
những người như thế tất cả đều được phong thánh.
Thánh chiến là cuộc đấu tranh sức mạnh của trí tuệ vũ khí của trí
huệ chính là văn hóa cội nguồn, một loại vũ khí tối tân hiện đại nhất của nhân
loại con người không có vũ khí tối tân hiện đại nào hơn, ánh trí huệ sáng
soi khắp cả hư không vũ trụ, bóng đêm u minh phải lùi không còn tồn tại.
Thánh chiến là giai cấp trí thức, giai cấp, phật, thánh, tiên,
thần, chúa, hành sự theo trời.
Có thể nói rằng, dù ở thời đại nào, cổ hay kim, giai đoạn xã
hội nào đi nữa, cũng có Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, từ trong nhân loại con
người hiện ra, nhất là giai đoạn chiến tranh giết người hàng loạt.
Có thể nói Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, cũng từ trong đủ thành
phần giai cấp nhân loại con người mà ra, họ là những bậc đại trí tuệ, các ngài
nhận thức ra đâu là Chính Nghĩa, đâu là Phi Nghĩa, mở ra hướng đi mới khai sáng
linh hồn làm cho nhân loại nhận thức đâu là sự giã dối, cái bóng của cái hình,
tuy giống nhau nhưng lại khác nhau, hình và bóng, họ chỉ cần làm sáng truyền
thống yêu nước lên, tức thời cái bóng của sự yêu nước giã dối phải tự tan
biến.
Truyền thống dựng nước, giữ nước đã sáng, thời cái bóng, của
truyền thống dựng nước, giữ nước giã dối cũng biến tiêu, Thánh chiến là cuộc
chiến đấu trí, mà kẻ thua không phải là người chiến bại, mà tự chuyển đổi ý
tưởng trở về với Chính Nghĩa mà thôi, mà chỉ có Thánh chiến mới xây chuyển
những thiệt hại đổ máu.
Giai cấp trí tức chân thiện là giai cấp giác ngộ, giai cấp loại bỏ
những cái ác, loại bỏ những cái lỗi thời, những cái già cỗi đã xơ cứng, không
đêm lại hiệu quả, ngược lại còn tai hại cho cuộc sống.
Sự nổ lực đấu tranh vì chân thiện, sự hoàn mĩ, của sự sống xã hội
văn minh hiện đại, dẫn dắt anh em nhân loại trở về Cội Nguồn, đi đến công bằng
bình đẳng, độc lập tự do hạnh phúc thật sự.
Những người có công như vậy, họ chính là Phật, Thánh, Tiên, Thần,
Chúa, không từ đâu đến mà từ tâm họ mà ra.
Những tư tưởng còn mê thường chạy theo chủ nghĩa cá nhân, độc tài
độc trị, bị địa vị quyền lợi mê hoặc, không còn sáng suốt, tự mình dấn thân vào
con đường địa ngục, mang tiến ác để đời, trăm năm bia đá vẩn mòn nghìn năm bia
miệng vẩn còn trơ trơ có thể nói rằng đấu tranh bằng con đường bạo lực, thắng
làm vua thua là giặc, xem đi xét lại giặc với vua cũng chẳng khác gì, đấu tranh
bạo lực là đấu tranh đã lỗi thời lạc hậu, không đêm lại kết quả cao dẫn đến
thiệt hại quá lớn, xương máu đổ xuống quá nhiều, làm tiêu tan sức lực xây
dựng hàng trăm năm của nhân loại con người.
Nếu để cho các tư tưởng còn mê, chỉ biết mình bảo thủ cũng cố sự
độc tài độc trị, thời chỉ làm cho đời sống con người đi vào ngõ cụt, có thể nói
là đi vào địa ngục.
Con đường đấu tranh loại bỏ cái Ác, hướng đến cái Thiện đi trên
con đường chính nghĩa thánh thiện, tất cả cho hòa bình, cho cuộc sống công bằng
bình đẳng, theo thiên ý CHA TRỜI mỗi một người sanh ra đều có quyền bình
đẳng.
Hay nói một cách khác Thánh chiến là cuộc chiến theo mệnh trời,
bảo vệ cái quyền mà trời đã ban cho mỗi con người, ổn định lại cuộc sống đi vào
nề nếp trật tự vũ trụ.
Như vậy Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, không từ đâu tới, mà từ con
người đủ các tần lớp. Giác ngộ hiện ra, cứu dân tộc thoát cơn nguy biến, tiến
tới dân giàu nước mạnh, mở cửa thiên đàng lấp đường địa ngục đưa nhân loại anh
em về trời.
*
*
*
Thưa các bạn:
Chúng ta đã đọc qua Kinh Nhân Luân, không ít thời nhiều chúng ta
cũng đã hiểu được phần nào, nội dung cơ bản của ĐẠO và ĐỨC, đạo ÂM - DƯƠNG sự
hòa hiệp của VỢ và CHỒNG, sự đấu tranh loại bỏ cái ác, loại bỏ cái lỗi thời,
loại bỏ sự già cỗi xơ cứng, loại bỏ sự độc tài dộc trị, tiến tới nền văn minh
dân chủ, độc lập tự do công bằng bình đẳng, bảo vệ quyền con người những quyền
mà không ai có quyền xâm phạm.
Có nghĩa là chúng ta truyền bá ánh sáng chính nghĩa văn hóa, ĐẠO
ĐỨC để cho mỗi con người được tỏa sáng, làm chủ vận mệnh, làm chủ xã hội,
làm chủ non sông tổ quốc, làm chủ Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, trên con
đường đấu tranh bất bạo động, đấu tranh ôn hòa, sự thành công nào cũng đầy gian
khổ. Chịu sự tu đày, tra tấn hành hạ, bởi cuộc thành công nào cũng có cái giá
phải trả.
Như Gia Tô, GIÊ SU phải chịu sự bắt bớ, giam cầm, tù đày, chịu sự
hành hạ đóng đinh, chuộc tội thay cho nhân loại tội ác, vì đã phạm vào thiên
luật thiên ý cha trời, đáng lý ra phải sa đọa xuống các tần địa phủ, đằng nầy
được cứu rỗi, tha thứ mà trở về cõi trên, phải nói chúa GIÊ SU, đã trả
cái giá quá đắc rất xứng đáng để cho nhân loại tôn thờ.
Như THÍCH CA từ bỏ quyền lực ngôi vị thái tử, tương ai sẽ là vua,
hi sinh tất cả, hạnh phúc và cả sự giàu sang, đi vào khổ hạnh tìm con đường cứu
vớt linh hồn nhân loại, sự hi sinh ấy phải nói là vô cùng lớn lao, cái giá phải
trả cũng quá đắc, đáng được nhân loại kính trọng và thờ phụng.
Các ngài thật sự là những người con gương mẫu của ĐẤNG TẠO HÓA, mà
Đấng Tạo Hóa chúng ta Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, gọi là ĐỨC CHA TRỜI,
hay TỔ TIÊN NHƯ LAI.
Thưa các bạn:
Nhơn luân kinh mở màng cho những quyển kế tiếp sau, chúng ta cũng
đã hiểu được phần nào cơ bản, của lẽ chân thật hạnh phúc, cũng như sự hi sinh,
và cái giá mà chúng ta phải trả, hành sự theo thiên luật vũ trụ, thiên ý của
Đức Cha Trời, thời không có gì để mà bàn cải, mà chỉ phụng sự hết lòng, vì nhân
loại anh em, vì hạnh phúc dân tộc, vì non sông tổ quốc, vì phụng sự CHA TRỜI,
vì TỔ TIÊN, vì CHÚA.
*
*
*
-----------------------------------------
PHẦN 7
PHẦN CÂU HỎI
1- Thánh chiến, phàm chiến, khác nhau ở chỗ nào ?
Hãy nêu lên vài ví dụ cụ thể, biện minh cho điều đó, có tính
thuyết phục cao, cơ sở khoa học.
2- Chiến tranh bất bạo động, chiến tranh bạo động khác nhau ở chỗ
nào ?
Hãy nêu lên vài ví dụ cụ thể, biện minh cho điều đó.
3- Thiên đàng và địa ngục ở đâu ? trong gia đình có địa ngục thiên
đàng không ? hãy dẩn chứng vài ví dụ, thuyết phục nhất.
4- Muốn có một xã hội, thật sự độc lập, tự do, công bằng, bình
đẳng, dân chủ văn minh, thời chúng ta phải làm sao? văn hóa cội nguồn có phải
là con đường kim chỉ nam, cho chúng ta không ? hãy biện minh cụ thể con đường
ấy, và sự hiệu quả của con đường ấy.
5- Xã hội chân thiện, hoàn mĩ, là xã hội như thế nào ?
Tối cao của xã hội chân thiện là gì, Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo
Pháp, hay là thể chế Độc Tài Độc Trị ? phân tích rõ cái lợi cái hại
cả hai.
6- Vì sao dân tộc Việt Nam con cháu Rồng Tiên, cần phải hướng về
Cội Nguồn ? có hại hay có lợi ? nếu là có lợi thời chúng ta phải làm sao
? duy trì, củng cố, phát huy, truyền bá đủ chưa, hay cần phải thêm những gì hãy
viết bài luận văn có tính thuyết phục nhất biện chứng thật sự lợi ích của văn
hóa Cội Nguồn, đối với dân tộc Việt Nam.
*
* *
--------------------------------------
PHẦN 8
GỐC và NGỌN
Hỏi: trong các tôn giáo, đạo giáo, NHO, LÃO, THÍCH, CHÚA, tôn
giáo, đạo giáo nào là gốc ?
Đáp: NHƠN ĐẠO, ĐẠO CON NGƯỜI và ĐẠO LÀM NGƯỜI mới thật là cái
gốc. Vì sao lại nói thế, vì Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa cũng từ người mà ra.
Vì thế Đạo Con Người và Đạo Làm người là cái gốc của tất cả Đạo.
Hơn nữa con người là tiểu thiên vũ trụ.
Có nghĩa là: Con người chính là vũ trụ được thu nhỏ, bao hàm
cả VÔ VI, HỬU VI.
HỬU VI phần thể xác, VÔ VI phần linh hồn.
HỬU VI phần thể xác, gồm có tứ đại bốn thể, ĐẤT, NƯỚC, GIÓ LỬA,
thể hơi - thể lỏng - thể chân hỏa - thể đặc.
VÔ VI phần linh hồn, gồm có ba LINH GIÁC, LINH THỨC và THẦN LỰC.
Linh Giác tự nhiên chính là linh giác NHƯ LAI, tánh như không,
tướng không, thân không, ý không.
LINH THỨC như lai, cái biết PHÂN BIỆT giác ngộ, mê muội đã thành
lập.
THẦN LỰC như lai, được sanh ra là do sự ĐẠI ĐỊNH, bất động tự
nhiên của LINH GIÁC như lai.
Và chính thần lực nầy, là Nguồn Cội tạo lên thế giới Vật Chất.
Nuôi dưỡng LINH THỨC, linh thức do linh giác NHƯ LAI khởi sanh ra, linh thức
như lai Tổ Tiên cùng thần lực như lai Tổ Tiên khai lập tạo lên vũ trụ, rồi tốm
thâu tinh hoa vũ trụ khai lập lên con người, TIỂU THIÊN VŨ TRỤ, tiểu
thiên vũ trụ chính là Con Người.
Hiểu cho hết con người không những hiểu rõ VÔ VI, HỬU VI, tiểu
thiên vũ trụ con người, mà còn hiểu rõ Đạo Con Người và Đạo Làm Người
thời coi như hiểu rõ tất cả Tôn Giáo Đạo Giáo Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Có
nghĩa là hiểu rõ phần thể xác lẫn linh hồn con người. Tức là hiểu rõ Nguồn Cội
linh hồn con người. Nguồn Cội thể xác con người. Nguồn Cội Lương Tâm con người.
Cũng như hiểu rõ ngũ đại thể xác con người lực đại, khí đại, nước đại, hỏa đại,
địa đại. Hiểu rõ chân tâm chân tánh, linh giác, linh thức con người, hiểu rõ
lương tâm của con người, thời coi như hiểu rõ tiểu thiên vũ trụ tiến
tới làm chủ vũ trụ, làm chủ sanh tử.
Có thể nói: Chưa biết mình là ai, mà làm chủ thiên hạ đó là chuyện
xa vời, chưa biết mình từ đâu đến, mà đòi dẫn dắt thiên hạ đi là chuyện không
nên làm.
NHƠN ĐẠO là cái đạo tối cao, không thể luận bàn cho hết được, dù
cho cả trăm năm cũng luận bàn không hết, huống chi là một ngày hai ngày. Con
người là tiểu thiên vũ trụ, là tổng hợp tinh hoa của TẠO HÓA. Muốn đạt đến cái
gốc cũa vũ trụ, mà bỏ mất cái gốc của con người, cái đạo của con người, là đều
không thể thành PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA.
PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA cũng từ con người mà ra, con người
giác ngộ hướng thiện mà thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Con người hiểu rõ
Cội Nguồn của mình, hiểu rõ chân tâm chân tánh của mình làm chủ lương Tâm, sống
theo lương Tâm. Sống vì nhân loại anh em, tận độ nhân loại anh em thời gọi là
PHẬT TỔ, THÁNH TỔ TIÊN TỔ, THẦN TỔ, CHÚA TỔ. Con người hiểu rõ đạo luật chân
tâm chân tánh làm chủ đạo luật lương tâm thời gọi là Chánh Đẳng Chánh
Giác Con người hiểu rõ nguồn cội của chính mình không rời xa nguồn
cội thời gọi đó là Viên Mãn, bảo vệ thiên luật vũ trụ, thiên ý CHA TRỜI,
cũng chính là duy trì Đạo Luật lương tâm của mỗi con người. Có lòng thương
người cứu vớt nhân loại anh em trở về với cội với nguồn thời gọi là những bậc
GIÁO CHỦ.
Như vậy các Tôn Giáo, Đạo Giáo cũng từ NHƠN ĐẠO, đạo con người,
đạo làm người mà ra. Chỉ tại con người chạy theo danh từ, phân biệt danh từ, lệ
thộc danh từ, mà cho đạo nầy hơn đạo kia, tôn giáo nầy hơn tôn giáo nọ. Thật ra
PHẬT, THÁNH, TIÊN, THẦN, CHÚA cũng từ nhơn đạo con người mà ra. Nhơn Đạo ví như
tòa nhà có nền móng, không có nền móng thời tòa nhà sụp đổ, nền móng vững chắc
của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, chính là Nhơn Đạo, Đạo Con Người và Đạo Làm
Người.
Như chúng ta cũng biết, linh hồn con người phần vô vi có ba phần.
Linh giác, linh thức, thuộc trí, thần lực, tinh lực, khí lực, nhị thể thân.
Phần linh giác, linh thức, không tự nhận thức ra chính mình, thời
gọi còn mê, linh giác, linh thức VÔ MINH. Nhận thức hiểu rõ về mình gọi là giác
ngộ, bổn lai diện mục (minh tâm kiến tánh ) gọi là Phật,
Thánh, Tiên, Thần, Chúa, làm chủ linh giác linh thức minh tâm kiến tánh của
chính mình phát Tâm độ tận nhân loại anh em gọi là Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ,
Thần Tổ, Chúa Tổ. Những người còn mê, không tự giác ngộ hiểu biết về mình,
không làm chủ được vận mệnh, không làm chủ được chân Tâm chân Tánh của chính
mình, không tự biết mình từ đâu đến, và phải trở về đâu, lạc cội lạc nguồn sa
vào con đường ác Đạo, gây ra không biết bao nhiêu là tội lỗi, luân hồi mãi mãi,
những người như thế không bao giờ trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa được.
Đấng tối cao vũ trụ, khai hóa tối thượng TỔ TIÊN từ bản thể tối
cao LINH GIÁC NHƯ LAI TỔ TIÊN, an trụ thật tướng, thật tánh, của chính mình,
khai tạo ra thần lực vũ trụ, và cũng từ bản thể LINH GIÁC NHƯ LAI TỔ TIÊN nầy,
khởi động tạo ra vô lượng vô biên linh thức chuyển hóa thành thức tánh, làm cho
ngũ thể chuyển theo tạo hình tạo vật, khai lập lên vũ trụ, và cũng từ bản thể
LINH GIÁC NHƯ LAI TỔ TIÊN nầy, khởi dụng tạo ra vô lượng vô biên linh thức, tốm
thâu tinh hoa khí hóa chơn dương, chơn âm vũ trụ hiện thân ra CHA TRỜI, hiện
thân ra ĐỊA MẪU. Tức là Tổ Tiên Khai Hóa hiện thân ra con người, một nam, một
nữ, NAM CỐT CÁCH RỒNG, NỮ CỐT CÁCH TIÊN. Hay nói một cách khác TỔ TIÊN NHƯ LAI
hiện thân là con người tức là CHA TRỜI, Cha của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa.
Những con chiên những người đi theo Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa gọi Cha Trời
là Chúa Trời. Cha Trời, Mẹ Trời sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giốngcon người
cho tới ngày nay ( xem kinh Long Hoa Mật Tạng, Long Hoa Thiên Tạng sẽ
nói rõ hơn). Con người là tiểu thiên tinh hoa vũ trụ, vì thế làm
chủ được con người làm chủ Chân Tâm Chân Tánh con người thời coi như làm
chủ của sự vạn năng, làm chủ vũ trụ.
Đạo con người, và Đạo làm người, là cái Đạo vô cùng vô tận, tương
ứng với cái Đạo của tạo hóa, ứng dụng cùng khắp trời đất. Đạo con người, là cái
Đạo đi vào sự sống. Sự sống bản thân, gia đình, xã hội, non sông tổ quốc, tề
gia, trị quốc, luận bình thiên hạ.
Ở gia đình con người hiện ra cái đạo tề gia, ở xã hội con người
hiện ra cái đạo trị quốc, ở giác ngộ con người hiện ra cái đạo cứu khổ, ban
vui, luận bình thiên hạ.
Đối với vợ thời người nam thể hiện ra cái đạo làm chồng, đối với
chồng thời người nữ thể hiện ra cái đạo làm vợ.
Đối với con cái thời người chồng, người vợ thể hiện ra cái đạo làm
cha làm mẹ.
Đối với cháu, chắt, chút, chít, thể hiện ra cái đạo làm ông làm
bà.
Đối với em thể hiện ra cái đạo làm anh làm chị.
Đối với anh chị, thể hiện ra cái đạo làm em.
Đối với thầy, thời thể hiện ra cái đạo làm trò.
Đối với non sông tổ quốc, thời thể hiện cái đạo làm dân, thể hiện
cái đạo làm chủ.
Đối với chủ, thời thể hiện cái đạo làm tôi làm tớ.
Nói tốm lại:
Cái đạo làm ĐẾ, làm VƯƠNG, làm VUA, làm CHÚA, làm QUAN, thời
phải hết lòng vì xã hội, hết lòng vì dân, hết lòng vì non sông tổ quốc.
Đạo làm PHẬT làm THÁNH, làm TIÊN, làm THẦN, làm CHÚA, thời phải
hết lòng vì TRỜI, vì THIÊN LUẬT, vì nhân loại con người, đêm lại sự công bằng
bình đẳng, bảo vệ quyền thiêng liêng mà TẠO HÓA đã ban tặng cho mỗi con
người, những quyền cơ bản, những quyền bất khả xâm phạm. Như Quyền con
người, quyền sống, quyền tự do, quyền công bằng, quyền bình đẳng, quyền tự do
ngôn luận, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, quyền hội hộp, quyền theo hoặc không
theo, quyền tự nguyện, quyền lập hội, quyền tự chủ, nói chung là 36 quyền chính
72 quyền phụ nhân quyền con người.
Hay ngược lại: Làm DẾ, làm VƯƠNG, làm VUA, làm CHÚA, làm QUAN, mà
coi dân như nô lệ, coi dân như giai cấp phụng sự cho mình, độc tài, độc
trị, tham lam tàn bạo, cửa quyền, sách nhiễu, vơ vét của công, đặt mình
lên trên truyền thống Ông Cha, lên trên non sông tổ quốc, thời phạm phải đại kỵ
của sự tổn đức. Đáng lý làm ĐẾ, VƯƠNG, VUA, CHÚA, QUAN, rất nhiều đời, đằng nầy
mới một đời mà đã lụn bại. Như vậy: Cái Đạo con người, cái Đạo làm người, chính
là tu thân, xử thế, sống Công Bằng Bình Đẳng, tôn trọng lẫn nhau sống đúng
lương tâm của mỗi con người. Thật là vô tận, vì thế có nhơn đạo là PHẬT ĐẠO,
THÁNH ĐẠO, TIÊN ĐẠO, THẦN ĐẠO, CHÚA ĐẠO tự thành. ĐẾ, VƯƠNG, VUA, CHÚA tự
có.
SAU ĐÂY LÀ PHẦN KINH TU THÂN XỬ THẾ ỔN ĐỊNH GIA ĐÌNH
*
*
*
GIA ĐẠO KINH
Trong cuộc sống không gì bằng đạo
Mất đạo rồi nhân loại ngữa nghiêng
Làm người phải rõ nhơn luân
Anh em chồng vợ cha con thực hành
Nhơn luân chánh giáo chơn truyền
Gắng công tu học đặng thành Thánh tâm
*
*
*
Đạo làm cha phải nghiêm minh
Giới luật, khuôn phép, luôn luôn làm đầu
Ăn ở mực thước mọi điều
Làm gương soi sáng dắt dìu cháu con
Sống theo đạo đức lương tâm
Sáng bừng chân lý, sáng lòng Đức cha
Tôn nghiêm trật tự sáng soi
Thái sơn sừng sững, trước sau trọn lành
Sống theo đạo luật đất trời
Giữ thân trong sạch lìa đường tà gian
Truyền kinh dạy đạo cháu con
Khuyên răn, uốn nắn, nghĩa nhân ở đời
*
*
*
Cha có đạo con thời bắt chước
Tập hiếu trung yêu nước yêu dân
Làm cha vô đạo không xong
Dễ bề sanh loạn ở trong gia đình
*
*
*
Làm mẹ trong sáng hiền lành
Sanh con đẻ cái giữ gìn tông môn
Sanh con không dạy là sai
Lưu truyền nòi giống đi đôi đạo mầu
Truyền cho con cháu mai sau
Những lời dạy bảo đạo mầu tổ tiên
Vợ chồng làm được như trên
Cha trời, địa mẫu, ứng linh hộ trì
Công lao sánh tựa biển trời
Vào ngôi Phật, Chúa, Thánh, Thần, chẳng sai
*
*
*
Làm con biết nghĩ, biết lo
Theo lời dạy bảo mẹ cha dạy truyền
Làm con hiếu hạnh trước tiên
Thờ cha, kính mẹ, thuận, hiền, trước sau
Ăn ở có nghĩa có nhân
Chăm lo học tập mai sau nên người
Trước tiên học lễ ở đời
Sau là văn, võ, đức tài, hiếu, trung
Chánh chân độ lượng rộng dung
Kính trên nhường dưới sớm hôm khiêm hòa
Xa nơi cờ bạc, rượu chè
Gái trai lãng mạng đua đòi phí phung
Tham lam, trộm cướp dứt đi
Cống cao ngạo mạn khó thì nên danh
Tự cao, tự phụ, ác gian
Mong gì thành đạt vẻ vang cuộc đời
Khoan thai độ lượng khiêm nhường
Đuổi xua cho hết tánh tình sân si
Rung đùi hách dịch tật hư
Tà dâm rối loạn, tông môn còn gì
*
*
*
Bội ơn bạc nghĩa ở đời
Làm sao lập đặng danh thời thơm danh
Làm con hiếu đạo nhớ luôn
Đáp đền sanh, dạy, mẹ cha biển trời
Muôn đạo lấy hiếu làm đầu
Hạnh cao như núi đức nào mà hơn
Làm con đạo đức như trên
Làm cho cha mẹ sớm hôm vừa lòng
Cha mẹ đẹp dạ vui mừng
Xứng dòng dõi đạo con Rồng cháu Tiên
Cha Trời, Địa Mẫu trên cao
Phật, Tiên, Thánh, Chúa, khắp nào càn khôn
Hộ trì hiếu nghĩa nhân luân
Làm cho sáng dạ thông minh đức tài
Đạo con như vậy là thành
Danh thơm khắp chốn tiếng lành đồn xa
*
*
*
Muốn cho gia đạo bình an
Không gì hơn được nhân luân ở đời
Chỉ có đạo nghĩa cao vời
Làm cho hạnh phúc gia đình ấm êm
*
*
*
Làm chồng đạo nghĩa nhớ ghi
Yêu thương đùm bọc chở che vợ hiền
Thủy chung giữ trọn đời mình
Một chồng một vợ trọn lành yên vui
Đường đời chồng vợ cùng đi
Vượt qua gian khổ đồng chia ngọt bùi
Vượt qua biển khổ cảnh trần
Vượt qua nghèo đói nghĩa tình biết bao
Vượt qua bao cảnh gian lao
Nghĩa chồng tình vợ biết bao đậm đà
Bể trần gian khổ đường đời
Đồng hành chồng vợ nương thời cùng nhau
Vượt qua bể cả sông sâu
Đường dài thiên lý có nhau đồng hành
Thân nữ vốn đã yếu mềm
Sanh con khó nhọc thân hình kém suy
Bệnh tật đau ốm thường khi
Cuộc đời khổ sở xiết chi khốn cùng
Vậy nên trong đạo vợ chồng
Thương yêu hết mực trọn phần thủy chung
Sống theo nhân nghĩa sớm hôm
Đẹp nhân đẹp nghĩa còn hơn đẹp người
Làm chồng như vậy là lành
Thánh, Thần, là đó chẳng lầm chẳng sai
Chúa, Tiên, cũng vậy xưa nay
Làm tròn bổn phận, làm cha, làm chồng
*
*
*
Làm vợ tiết hạnh trọn đời
Kính chồng, chăm sóc, thuận lời đừng sai
Thuận chồng thuận vợ lâu dài
Trọn đời hạnh phúc có sai bao giờ
Yêu chồng vợ khéo tôn thờ
Cho chồng tỏa sáng cậy nhờ sớm hôm
Làm vợ như vậy mới khôn
Làm cho hạnh phúc càng thêm đậm đà
Yêu chồng nào có thiệt thòi
Trọn đời dân hiến đức là hiền nhu
Làm vợ như vậy mới cao
Trăm năm hạnh phúc biết bao nghĩa tình
Tiếng thơm lan tỏa xa gần
Vợ chồng đạo nghĩa đạt thành đề thi
Về trời sống mãi an vui
Cháu con vinh hiển, hiển vinh rạng ngời
*
*
*
Vợ cùng chồng thuận hòa như vậy
Làm tấm gương để lại về sau
Cháu con lấy đó soi chung
Hành trang đạo đức, vàng son cuộc đời
*
*
*
Vợ cùng chồng soi đường như vậy
Thời gia đình họ tộc yên vui
Làm chồng như ánh thái dương
Sáng bừng chân lý gia môn rạng ngời
Làm vợ như ánh trăng rằm
Hiệp nhau soi sáng ở trong gia đình
Để cho con cháu theo lần
Con đường đạo đức Cha Trời truyền ban
Nhơn luân đạo nghĩa cao thâm
Tu hành phúc đến giàu sang vững bền
*
*
*
Làm anh nhớ chữ công bằng
Nhớ cùng một cội một dòng máu ra
Chung cùng một mẹ một cha
Đã cùng một cội phải hòa nhịn nhau
Làm anh phải nghĩ trước sau
Sống theo lẽ phải siêng trau đức lành
Ruột rà chung một gia đình
Thương yêu đùm bọc thắm tình anh em
Làm anh giới đức tinh nghiêm
Ở ăn mực thước nói năng dạy bày
Gương mẫu đạo đức gia đình
Soi đường chỉ lối dắt dìu các em
Một là không được tham lam
Của ai xong nấy đừng mong làm gì
Hai là không được sân si
Hận thù ganh ghét được gì khổ thân
Ba là không được dệt thêu
Chuyện không nói có lắm điều diềm pha
Bốn là nạnh hẹ cạnh tranh
Phân bì nầy nọ lựa phần thiệt hơn
Anh em như thể tay chân
Tựa nương giúp đở xa gần xẻ chia
Năm là không được hơn thua
Làm cho huynh đệ sớm trưa tương tàn
Sáu là không được làm càn
Việc gì cũng phải rõ ràng phân minh
Làm anh như vậy mới cao
Sáng bừng đạo đức biết bao đẹp lành
Trời ban hồng phúc nên người
Mai sau ắt có võng dù, giàu sang
*
*
*
Làm em có nghĩa có nhân
Kính anh nhường chị dạ vân lựa lời
Thuận anh thuận chị đạo trời
Làm càn ngang bướng cuộc đời ra chi
Làm em nhường nhịn tôn ti
Thuận hòa trên dưới có gì không vui
Nhiều khi anh chị lỗi sai
Không nên đối đáp trả treo làm gì
Một nhịn là chín sự lành
Mai sau gặt hái vạn nhành hoa thơm
Giàu sang nhờ biết luyện tu
Kính trên nhường dưới mới nên danh vàng
*
*
*
Đạo làm em nhất thời hiện tại
Khi lớn lên trở lại làm anh
Làm thầy dạy đạo cứu dân
Làm cha, làm mẹ, làm ông làm bà
Nhơn luân chuyển hóa không ngừng
Trải qua thứ tự từng phần thứ ngôi
Làm người ai cũng như ai
Lượt lần ngôi vị trải qua lượt lần
*
*
*
Kinh nầy từ trẻ đến già
Thành tâm đọc tụng chỉ là một câu
Họa tai liền bị biến tan
Cha Trời, Địa Mẫu phóng quang hộ trì
Huống chi tụng đọc thuộc lòng
Huệ khai trí sáng học hành thông minh
Thành tâm biên chép ấn in
Cháu con đều đặng nên danh rạng ngời
Giàu sang muôn kiếp vạn đời
Biện tài vô ngại cõi trời tổ sư
Phật, Tiên, Thánh, Chúa lạ chi
Nhân Luân tu học tức thì hiện ra
*
*
*
Chúng con: là Phật, Thánh, Tiên, Thần Chúa, nguyện cầu ơn trên CHA
TRỜI, ĐỊA MẪU, từ bi gia hộ cho toàn pháp giới cháu con , sớm dứt nghiệp ác,
căn lành tăng trưởng, trở về Nguồn Cội, lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác.
NAM MÔ KHAI HÓA TỐI THƯỢNG TỔ TIÊN VÔ BIÊN NHƯ LAI (LẠY).
NAM MÔ LONG HOA CỮU HUYỀN THIÊN PHỤ ẤN QUANG TỐI THẮNG NHƯ LAI
(LẠY).
NAM MÔ TIÊN CƠ ĐỨC MẸ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH NHƯ LAI (LẠY).
CHÚ GIẢI TRỪ TAI HỌA:
Nam mô Phật, nam mô Thánh, nam mô Tiên, nam mô Thần, nam mô Chúa.
Nam mô ứng hóa Cửu Huyền, Cha Trời , Địa Mẫu, linh linh ứng ứng chuyển họa
thành phúc, giải trừ oán nghiệp. Hai tay bắt ấn tý ngọ, miệng lâm râm đọc Nam
Mô A Men, họa tai ác nghiệp biến.
BÌNH LUẬN:
Dù cho ở thiên đàng, mà mất cái đạo con người và cái đạo làm
người, thời cũng bị sa đọa như thường. Làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, mà không
dạy con cái, cháu chắt, sống theo đạo đức, thời cũng có tội.
Trời tuy gián phúc nhưng cũng gián họa, thưởng cái công lưu truyền
nòi giống, nhưng phạt cái tội không lưu truyền đạo đức cho con, cho cháu. Xã
hội cũng vậy, phát triển vật chất mà không đi đôi với văn minh tinh thần, thời
đại họa sanh ra không sao tránh khỏi. Xem thường cái đạo con người, và cái đạo
làm người tu nhân xử thế, thời kể như xã hội đó xây nhà không có nền móng, càng
xây lên cao thời càng sụp đổ.
Một khi con người nhận thức về đạo đức còn kém, trình độ dân trí
còn thấp, mà bỏ mất văn hóa nhơn đạo thời xã hội đó không nói cũng biết, không
khác gì xã hội rác rưỡi, không đạo đức dối trá, mầm họa của sự tai họa, Sống
theo cái đạo con người, và cái đạo làm người , thời đã có cái gốc của Phật,
Thánh, Tiên, Thần, Chúa, tất cả Đạo Giáo, Tôn Giáo, Chính Nghĩa, không ngoài
cái Đạo con người và cái Đạo làm người, tu nhân xử thế.
Làm cha làm mẹ trong gia đình cần phải hiểu rõ nhơn đạo, có hiểu
rõ nhơn đạo, mới làm sáng cái đức, của đạo làm cha làm mẹ, tỏa sáng như mặt
trời, mặt trăng, thời trong gia đình mới xóa ta đi sự u ám, sống có nề nếp,
trật tự, trên dưới hòa thuận,
Làm chồng là trụ cột trong gia đình, trên một nền tản vững chải
của người vợ, để cho con cái bám trụ, vượt lên, những tầm cao trong xã hội sau
nầy.
Làm ĐẾ, làm VƯƠNG, làm VUA, làm CHÚA, mà nắm vững cái Đạo làm
người, trị quốc dạy dân, làm cho xã hội non sông tổ quốc thái bình thịnh
vượng, dân chúng yên vui. Thời công đức của những , ĐẾ, VƯƠNG, VUA, CHÚA, ấy
phải nói là không thể nghĩ bàn, muôn kiếp thường hiện thân làm vua Chuyển Luân,
trên tất cả Đế, Vương, Vua, Chúa, ngự trên châu báu, cõi Trời, cõi Người.
PHẦN THƯA HỎI:
HỎI:
Vì sao Đức Long Hoa CHA TRỜI, còn gọi là Cửu Huyền THẤT TỔ ?
ĐÁP:
Chữ Cửu là chín, TỔ TIÊN hiện thân ra con người CHA TRỜI, MẸ TRỜI,
có chín khiếu: Hai mắt, hai tai, hai mũi, miệng, lỗ
tiểu, lỗ tiện. Chín khiếu thông thương khắp vũ trụ.
Còn chữ HUYỀN, là nói đến thân người là tinh hoa vũ trụ thu nhỏ,
tiểu thiên vũ trụ, không khác gì đại thiên vũ trụ, con người là động vật tối
linh của trời đất. HUYỀN LINH không động vật nào linh bằng. Như vậy hai chữ Cửu
Huyền là có ý nghĩa như trên.
THẤT TỔ là nói đến CHA TRỜI CỬU HUYỀN khai ra THẤT GIÁO:
1) PHẬT GIÁO, 2) THÁNH GIÁO, 3) TIÊN GIÁO, 4) CHÚA GIÁO, 5) THẦN
GIÁO, 6) NHƠN GIÁO, 7) THẦY GIÁO.
Bảy đại giáo nầy, CỬU HUYỀN CHA TRỜI sáng lập truyền xuống nên gọi
là Cửu Huyền THẤT TỔ.
TỔ TIÊN KHAI HÓA, HIỆN THÂN RA CHA TRỜI, CỬU HUYỀN THẤT TỔ, hay
còn gọi là chúa Trời ĐẤNG CHA LÀNH ĐỘC TÔN VÔ NHỊ, TỐI CAO VŨ TRỤ.
Ở PHẬT GIÁO có vô lượng PHẬT TỔ,
Ở THÁNH GIÁO có vô lượng THÁNH TỔ,
Ở TIÊN GIÁO có vô lượng TIÊN TỔ,
Ở THẦN GIÁO có vô lượng THẦN TỔ,
Ở THIÊN GIÁO có vô lượng CHÚA TỔ,
Ở ĐỊA GIÁO có vô lượng ĐỊA TỔ,
Ở NHƠN GIÁO có vô lượng THẦY TỔ,
Tuy bảy giáo nhưng thật ra chỉ có một ông tổ Tối Cao đó là Đức CHA
TRỜI, bảy nhánh chung cùng một Cội.
NHỮNG ĐIỀU CẦN CHÚ Ý:
Sự chuyển luân trong vũ trụ, đến một thời điểm nào đó có đấng tối
cao xuất hiện, thay thế cho Cha Trời, đấng tổng đà la ni của tạo hóa,
tổng mật tạng vũ trụ, nói ra pháp đại đồng vũ trụ, đấng tối cao ngài là
đức Hư Không, không ở trong bảy giáo, nhưng không xa rời bảy giáo, tùy thuận
dân trí nhân loại mà chuyển pháp luân theo Thiên Ý Cha Trời.
Đức Long Hoa Cửu Huyền Cha Trời sáng lập ra bảy giáo, Cha Trời ngự
trong trong tâm thức của mỗi con người, và dìu dắt con người đi đến chân thiện,
trở thành vô lượng PHẬT TỔ, vô lượng THÁNH TỔ, vô lượng TIÊN TỔ, vô lượng THẦN
TỔ, vô lượng CHÚA TỔ, vô lượng ĐỊA TỔ, vô lượng THẦY TỔ. Khi tất cả giáo trở về
là một, hiệp vào chân tánh vũ trụ, Chân Tánh Đại Đồng, thời tổng trì ĐÀ LA NI,
theo Thiên Ý Cha Trời, chuyển đại pháp luân, tận độ khắp ta bà thế giới, tam
thiên đại thiên như số vi trần.
*
*
*
--------------------------------------
HẾT QUYỂN 1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét