Sinh non là thuật ngữ
dùng để chỉ việc sinh con trước ngày dự sinh, thường là trước tuần thứ 37 của
thai kỳ. Hầu hết các ca sinh non xảy ra giữa tuần 34 và 36 của thai kỳ. Các
chuyên gia y tế gọi thuật ngữ này là “giai đoạn sinh non muộn”. Nguyên nhân
chính xác của sinh non thường khó xác định nhưng có những yếu tố có thể làm
tăng nguy cơ.
Vào năm 2018, cứ mười
trẻ sinh ra ở Hoa Kỳ thì có một trẻ bị sinh non. Cũng trong năm đó, tỷ lệ sinh
non ở những bệnh nhân da đen không phải gốc Tây Ban Nha cao hơn khoảng 50% so
với những bệnh nhân da trắng không phải gốc Tây Ban Nha, theo một nghiên cứu từ
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh. Trẻ sinh non và mẹ của chúng dễ bị
nhiều biến chứng dẫn đến các tình trạng bệnh lý ngắn hạn và dài hạn, thậm chí
tử vong. Trẻ sinh ra càng sớm, rủi ro càng lớn.
Dấu hiệu Sinh non là gì?
Một số dấu hiệu của
chuyển dạ sinh non tương tự như chuyển dạ đủ tháng. Người mẹ có thể bị các cơn
co thắt và nước trong túi ối xung quanh thai nhi có thể bị vỡ ra. Các dấu hiệu
sinh non khác bao gồm (x) :
Áp lực vùng chậu khi em
bé đẩy vào hoặc khung xương chậu
Đau quặn bụng, có thể
kèm theo tiêu chảy
Ngu si đần độn đau lưng
, đặc biệt là ở khu vực thấp hơn
Thay đổi dịch tiết âm
đạo, có thể chảy nước, có máu hoặc chứa chất nhầy với số lượng ít hoặc nhiều
Sinh non ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh như thế nào?
Trẻ sinh ra quá sớm có
thể có những đặc điểm cơ thể khác biệt: kích thước nhỏ, da mỏng với các mạch
máu nổi rõ và được bao phủ bởi những sợi lông mịn, cơ thể ít mỡ và ít lông trên
da đầu. Trẻ sơ sinh cũng có thể có bộ phận sinh dục kém phát triển. Ngoài ra
còn có các biến chứng ngắn hạn và / hoặc dài hạn, bao gồm:
Biến chứng thở
Ngưng thở khi sinh non
(AOP): Tạm dừng thở trong 15 đến 20 giây, thường xảy ra cùng với nhịp tim thấp
hoặc nhịp tim chậm.
Hội chứng rối loạn hô
hấp (RDS): Thiếu chất hoạt động bề mặt trong phổi non nớt của trẻ khiến chúng
không bị xẹp phổi. Nó cũng ngăn cản các cơ quan của trẻ sơ sinh nhận được lượng
oxy cần thiết.
Hen suyễn : Gây ra do
viêm đường hô hấp của phổi.
Loạn sản phế quản phổi
(BPD): Một bệnh phổi, xảy ra nếu em bé được điều trị bằng máy thở trong một
thời gian dài. Trẻ sơ sinh mắc chứng BPD dễ bị nhiễm trùng phổi và tổn thương
phổi lâu dài.
Viêm phổi : Một bệnh
nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc vi rút, mà em bé có thể phát triển trong bụng mẹ
hoặc trong những tuần đầu sau sinh, đặc biệt nếu bác sĩ đặt em bé trong lồng ấp.
Các biến chứng về máu
Vàng da : Xảy ra khi một
chất gọi là bilirubin tích tụ trong máu của trẻ, khiến da và củng mạc (phần
lòng trắng của mắt) chuyển sang màu vàng. Sự tích tụ là do gan hoặc tế bào hồng
cầu kém phát triển hoặc hoạt động kém.
Thiếu máu : Trong khi
tất cả trẻ sơ sinh đều bị giảm số lượng hồng cầu, thì số lượng trẻ sinh non lại
cao hơn.
Nhiễm trùng
Nhiễm trùng huyết : Do
hệ thống miễn dịch kém phát triển, nhiễm trùng có thể nhanh chóng xâm nhập vào
máu của trẻ sơ sinh và lây lan khắp cơ thể. Điều này cực kỳ nguy hiểm đến tính
mạng.
Viêm màng não : Viêm
màng trong não hoặc tủy sống do vi khuẩn, vi rút hoặc nấm gây ra. Nó thường dẫn
đến các tình trạng lâu dài như khuyết tật về khả năng học tập và thị lực.
Các biến chứng khác
Bại não : Gây ra bởi
lượng máu lưu thông không đủ, chấn thương não, nhiễm trùng và thậm chí là vàng
da. Nó làm suy giảm trương lực cơ, tư thế và / hoặc cử động của trẻ sơ sinh.
ADHD : Rối loạn tăng
động giảm chú ý đề cập đến hành vi hiếu động thái quá, không chú ý và bốc đồng.
Các yếu tố nguy cơ sinh non là gì?
Các yếu tố nguy cơ sinh
non có thể rất lớn và đe dọa đến tính mạng. Chúng bao gồm mang thai đa bội và
sinh đôi, sinh ba trở lên; mang thai xảy ra trong vòng sáu tháng của nhau; các
bệnh mãn tính như tiểu đường , tăng huyết áp , bệnh tự miễn hoặc HIV / AIDS.
Tuổi tác là một yếu tố
nguy cơ quan trọng khác. Phụ nữ dưới 18 tuổi hoặc trên 35 tuổi có nguy cơ cao
bị các biến chứng nghiêm trọng, đặc biệt là lần đầu mang thai. Cân nặng là một
yếu tố nguy cơ khác. Thiếu cân hoặc thừa cân trước khi mang thai có thể là một
vấn đề, đặc biệt nếu đó là kết quả của chứng rối loạn ăn uống như chán ăn tâm
thần hoặc chứng ăn vô độ . Bệnh nhân cũng có thể gặp vấn đề với tử cung, cổ tử
cung hoặc nhau thai. Ví dụ, cổ tử cung của một số phụ nữ ngắn lại quá sớm khi
mang thai. Nhiễm trùng cũng có thể làm tăng nguy cơ sinh non, đặc biệt là ở
màng ối bao quanh trẻ sơ sinh hoặc ở vùng sinh dục, bao gồm cả các bệnh lây
truyền qua đường tình dục.
Rối loạn mô liên kết như
hội chứng Ehlers-Danlos (EDS) và hội chứng Ehlers-Danlos mạch máu (vEDS) và đột
biến di truyền trong collagen — protein cấu trúc chính trong mô liên kết của
động vật có vú — cũng có thể dẫn đến sinh non. Bên cạnh việc gây sinh non, thai
nhi cũng có thể bị di truyền những rối loạn này. Cuối cùng, các yếu tố lối sống
bao gồm căng thẳng, hút thuốc, lạm dụng chất kích thích, chấn thương thể chất
hoặc chấn thương .
Ngăn ngừa sinh non
Giảm các yếu tố rủi ro
Không phải lúc nào cũng
hoàn toàn rõ ràng tại sao trẻ sinh non. Một số biến chứng có thể phát sinh tại
thời điểm sinh. Nhưng có những cách để giảm rủi ro. Ví dụ, tránh các yếu tố lối
sống có thể cản trở việc mang thai đủ tháng khỏe mạnh. Tránh hút thuốc, rượu và
lạm dụng chất gây nghiện / ma túy và ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, cân bằng
để duy trì cân nặng hợp lý trong thai kỳ.
Ngoài ra, bệnh nhân nên
cố gắng giảm căng thẳng từ các lĩnh vực khác nhau trong môi trường: tài chính,
các mối quan hệ, công việc,… Bệnh nhân cũng có thể cân nhắc đợi ít nhất 18
tháng trước khi mang thai trở lại vì đa thai gần nhau có thể làm tăng nguy cơ
sinh non. sinh.
Thuốc men
Nếu một bệnh nhân dễ bị
sinh non sau khi cố gắng giảm các yếu tố nguy cơ, thì có những phương pháp điều
trị nhằm giúp kéo dài thời kỳ mang thai đủ tháng. Chúng bao gồm từ thuốc đến
thủ thuật phẫu thuật, tùy thuộc vào sức khỏe của bệnh nhân và tình trạng của
họ.
Corticosteroid trước sinh (ACS)
Đây là một trong những
biện pháp điều trị trước khi sinh quan trọng nhất. Theo nghiên cứu,
corticosteroid trước sinh có thể cải thiện thành công cơ hội sống sót của trẻ
sơ sinh từ tuần thứ 24 đến tuần thứ 33 của thai kỳ, đặc biệt nếu nguy cơ là do
vỡ ối hoặc sinh nhiều lần. Corticosteroid cũng có thể giúp phổi của thai nhi
hoạt động.
Tocolytics
Tocolytics là liệu pháp
điều trị bằng thuốc mà các bác sĩ sử dụng để trì hoãn việc sinh nở nhưng họ chỉ
áp dụng cho những phụ nữ có triệu chứng chuyển dạ sinh non trong khoảng từ 27
đến 37 tuần tuổi thai. Tuy nhiên, chúng không ngăn ngừa các biến chứng.
Thuốc kháng sinh
Các bác sĩ có thể dùng
thuốc kháng sinh cho phụ nữ sinh non khi túi ối bị vỡ. Chúng có thể giúp kéo
dài thời kỳ mang thai và bảo vệ mẹ và con khỏi bị nhiễm trùng.
Các phương pháp phòng ngừa khác
Progesterone: Một loại
hormone thường được sử dụng hàng tuần cho những phụ nữ có tiền sử sinh non
trước tuần thứ 21 của thai kỳ. Các bác sĩ cung cấp hormone này dưới dạng tiêm
hoặc pessary (thuốc đặt âm đạo).
Cắt cổ tử cung: Là thủ
thuật ngoại khoa mà các bác sĩ thực hiện đối với những phụ nữ có cổ tử cung
ngắn, tiền sử cổ tử cung ngắn hoặc các mô cổ tử cung yếu. Các đường chỉ khâu
chắc chắn giúp hỗ trợ thêm.
Vitamin và thảo mộc cho một thai kỳ khỏe mạnh
Các chất dinh dưỡng
thiết yếu hàng ngày rất quan trọng trong việc ngăn ngừa các vấn đề phát triển
của thai nhi, sinh non và các biến chứng ở mẹ. Bệnh nhân mang thai hoặc bệnh
nhân hy vọng có thai nên ăn một chế độ ăn uống cân bằng với thực phẩm chất
lượng cao, bao gồm carbohydrate phức hợp, protein, trái cây, rau, chất béo lành
mạnh và vi chất dinh dưỡng. Các bác sĩ cũng có thể kê đơn thuốc bổ sung cho
bệnh nhân sử dụng kết hợp. Chúng có thể giúp bệnh nhân và em bé nhận đủ lượng
vitamin, khoáng chất và thảo mộc thiết yếu mà họ cần.
Tuy nhiên, hãy luôn hỏi
ý kiến bác sĩ trước khi dùng bất kỳ loại vitamin hoặc chất bổ sung nào trong
thai kỳ. Chúng không phải là phương pháp chữa bệnh hoặc công cụ phòng ngừa
thích hợp cho bất kỳ tình trạng hoặc bệnh tật nào. Kiểm tra với bác sĩ để biết
liều lượng chính xác để tránh bất kỳ tác dụng phụ không mong muốn nào.
Vitamin trước khi sinh
Hầu hết thời gian,
vitamin trước khi sinh bao gồm các vitamin và khoáng chất dành riêng cho quá
trình mang thai. Bệnh nhân có thể muốn chọn các loại vitamin tự nhiên trước khi
sinh, được làm từ trái cây, rau và thảo mộc hữu cơ được chứng nhận toàn phần,
không chứa GMO và các chất phụ gia khác.
Các chất dinh dưỡng quan trọng khác
Sắt
Thiếu sắt có thể gây ra
tình trạng thiếu hụt cho cả người bệnh và thai nhi, khiến các mô không nhận đủ
oxy. Theo nghiên cứu, bệnh nhân mang thai và thai nhi đang phát triển dễ bị
thiếu sắt hơn bất kỳ bệnh nhân khỏe mạnh nào khác. Cung cấp đủ sắt có thể giúp
tăng cường cung cấp oxy và có khả năng giảm mất máu trong quá trình chuyển dạ.
Vitamin C
Vitamin C cần thiết cho
sự hấp thụ sắt thích hợp để khuyến khích lưu thông lành mạnh trong cơ thể.
Trong một nghiên cứu, vitamin C đã cải thiện sự hấp thụ sắt của các đối tượng
lên gần 70 phần trăm.
Axít folic
Axit folic là một dạng
của vitamin B9 và nó rất quan trọng đối với thai kỳ. Nó đóng một vai trò quan
trọng trong sự phát triển của tế bào, bao gồm cả việc thai nhi đang phát triển.
Theo nghiên cứu, nồng độ axit folic thấp có thể liên quan đến các bất thường và
khuyết tật bẩm sinh của thai nhi. Nhưng với việc bổ sung axit folic trong suốt
thai kỳ, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy giảm nguy cơ sinh con nhẹ cân và sinh
non.
Canxi
Canxi là một khoáng chất
quan trọng để xây dựng hệ thống xương, cơ, thần kinh và tuần hoàn của thai nhi
và giúp hỗ trợ tăng cân khỏe mạnh. Việc giảm nồng độ canxi trong thai kỳ là
điều tự nhiên . Nhưng theo nghiên cứu, hạ canxi máu (thiếu canxi) trong thai kỳ
có thể gây ra các vấn đề cho người bệnh và thai nhi đang phát triển. Nó có thể
ảnh hưởng đến sức khỏe của xương, quá trình tiết sữa và số lượng hồng cầu.
Magiê
Magiê rất quan trọng đối
với một số phản ứng hóa học, bao gồm cả những phản ứng liên quan đến chức năng
miễn dịch, cơ bắp và hệ thần kinh. Với liều lượng thích hợp, magiê có thể làm
giảm nguy cơ tăng huyết áp và tiền sản giật trong thai kỳ cũng như hỗ trợ thai
nhi phát triển khỏe mạnh.
Vitamin D
Theo nghiên cứu, vitamin
D có thể làm giảm thành công nguy cơ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ và tiền sản
giật ở bà mẹ, đồng thời hỗ trợ sự phát triển hệ xương và răng của thai nhi. Nó
cũng hỗ trợ chức năng miễn dịch và phân chia tế bào. Tuy nhiên, với một lượng
cao, vitamin D có thể gây độc trong thai kỳ.
DHA
DHA là một loại axit béo
omega-3 , rất cần thiết cho sự phát triển não và võng mạc của thai nhi. Nó cũng
quan trọng đối với sự phát triển vận động và nhận thức khỏe mạnh ở thai nhi
đang lớn. Nghiên cứu chỉ ra rằng mức DHA của người mẹ giảm trong thời kỳ mang
thai, điều này có thể cần bổ sung để giúp hỗ trợ một thai kỳ khỏe mạnh.
Các chất bổ sung cần tránh
Các loại thảo mộc và
vitamin khác có thể không an toàn khi dùng trong thai kỳ. Ngay cả khi bản thân
các loại vitamin hoặc thảo mộc nói chung là an toàn, việc dùng quá nhiều có thể
gây hại và tăng nguy cơ biến chứng, bao gồm:
Vitamin A
Vitamin K
Caffeine
đồng quai
Saw Palmetto
Yohimbe
Goldenseal
Hoa đam mê
Kết luận
Sinh non là trường hợp
một đứa trẻ được sinh ra trước ngày dự sinh, thường là trước 37 tuần của thai
kỳ. Nhiều dấu hiệu tương tự như giao hàng đủ tháng. Trẻ sinh non thường dễ bị
các biến chứng ngắn hạn và dài hạn bao gồm các vấn đề về hô hấp, biến chứng về
máu, nhiễm trùng và các bệnh mãn tính. Các yếu tố nguy cơ của chuyển dạ sinh
non bao gồm sinh nhiều lần; tình trạng sức khỏe của bà mẹ như tiểu đường, cao
huyết áp hoặc HIV / AIDS; lựa chọn lối sống như hút thuốc và lạm dụng ma túy;
tuổi và cân nặng.
Trong một số trường hợp,
bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ có thể cần đến sự trợ giúp của các chuyên gia y
tế để kéo dài thai kỳ và ngăn ngừa chuyển dạ sinh non. Để khuyến khích một thai
kỳ khỏe mạnh, bệnh nhân nên lựa chọn lối sống để hỗ trợ sức khỏe của chính mình
và của thai nhi bằng một chế độ ăn uống cân bằng và bổ sung vitamin và khoáng
chất nếu cần thiết. Tuy nhiên, tất cả bệnh nhân nên tham khảo ý kiến bác sĩ
trước khi dùng bất kỳ loại vitamin hoặc chất bổ sung nào. Những tuyên bố này
chưa được đánh giá bởi Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm. Các chất bổ sung
không nhằm mục đích chẩn đoán, điều trị, chữa khỏi hoặc ngăn ngừa bất kỳ bệnh
nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét